Archive for tháng 8 2019

25/08/19 Chúa Nhật Tuần XXI Mùa Thường Niên


BÀI ĐỌC I: Is 66, 18-21
“Chúng dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Đây Chúa phán: “Ta đã biết các việc làm và tư tưởng của chúng; Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta. Ta sẽ đặt nơi chúng một dấu lạ, Ta sẽ sai một số trong những người được giải thoát đến các dân ngoài biển, bên Phi châu và Lyđia, là những dân thiện xạ, đến Ý-đại-lợi và Hy-lạp, đến những hòn đảo xa xăm, đến với những kẻ chưa nghe nói về Ta, và chưa thấy vinh quang của Ta. Chúng sẽ rao giảng cho các dân biết vinh quang của Ta, sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến như của lễ dâng cho Chúa, họ cỡi ngựa, đi xe, đi võng, cỡi la, cỡi lạc đà, đến núi thánh của Ta là Giêrusalem, khác nào con cái Israel mang của lễ trong chén tinh sạch vào nhà Chúa, Chúa phán như thế. Trong những dân đó, Ta sẽ chọn các tư tế, các thầy Lêvi: Chúa phán như vậy”. Vì chưng lời Chúa rằng: Cũng như Ta tạo thành trời mới, đất mới đứng vững trước mặt Ta thế nào, thì dòng dõi ngươi và danh tánh các ngươi sẽ vững bền như vậy”.
Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 116, 1. 2
Đáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
Xướng:
1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người. – Đáp.
2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Dt 12, 5-7, 11-13
“Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: “Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con; vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con”. Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt. Ngày nay, hẳn ai cũng coi việc sửa dạy là nỗi buồn khổ, hơn là nguồn vui, nhưng sau này, nó sẽ mang lại hoa quả bình an công chính cho những ai được sửa dạy. Vì thế, anh em hãy nâng đỡ những bàn tay bủn rủn và những đầu gối rụng rời. Đường anh em đi, anh em hãy bạt cho thẳng, để người què khỏi bị trẹo chân, nhưng được an lành.
Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 13, 22-30
“Người ta sẽ từ đông chí tây đến dự tiệc trong nước Chúa”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” Nhưng Người phán cùng họ rằng: “Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được. Khi chủ nhà đã vào và đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: ‘Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi’. Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: ‘Ta không biết các ngươi từ đâu tới’. Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: ‘Chúng tôi đã ăn uống trước mặt ngài và ngài đã giảng dạy giữa các công trường chúng tôi’. Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: ‘Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta’. Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết”.
Đó là lời Chúa.

24/08/19 Thứ Bảy Tuần XX Mùa Thường Niên, Thánh Batôlômêô, Tông Đồ


BÀI ĐỌC I: Kh 21, 9b-14
“Trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Thiên Thần nói với tôi rằng: “Ngươi hãy đến, ta sẽ chỉ cho ngươi xem phu nhân, bạn của Con Chiên”.
Thiên Thần đem tôi lên một núi cao chót vót khi tôi ngất trí, và chỉ cho tôi thấy thành thánh Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Ánh sáng của nó toả ra như đá quý, giống như ngọc thạch, óng ánh tựa pha lê. Thành có tường luỹ cao lớn, trổ mười hai cổng, trên các cổng có mười hai thiên thần, và có khắc tên mười hai chi họ con cái Israel. Phía đông có ba cổng, phía bắc có ba cổng, phía nam có ba cổng, và phía tây có ba cổng. Tường thành xây trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên. Còn đền thờ, tôi không thấy có trong thành, vì Thiên Chúa toàn năng và Con Chiên là đền thờ của thành. Thành không cần mặt trời mặt trăng chiếu soi: vì đã có vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng nó và đèn của nó chính là Con Chiên.
Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 144, 10-11. 12-13ab. 17-18
Đáp: Lạy Chúa, các bạn hữu Chúa nhận biết vinh quang nước Chúa (c. 12a).
Xướng:
1) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. – Đáp.
2) Để con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Chúa là nước vĩnh cửu muôn đời; chủ quyền Chúa tồn tại qua muôn thế hệ. – Đáp.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối của Người, và yêu thương mọi kỳ công Người tác tạo. Chúa ở gần những kẻ kêu cầu Người, những kẻ kêu cầu Người với lòng thành thật. – Đáp.

ALLELUIA: Ga 1, 49b
Alleluia, alleluia! – Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 1, 45-51
“Đây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối “.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Philipphê gặp Nathanael và nói với ông: “Đấng đã được Môsê ghi trong Luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp rồi: đó là Giêsu con ông Giuse, người thành Nadarét”. Nathanael đáp: “Bởi Nadarét nào có cái chi hay?” Philipphê nói: “Hãy đến mà xem”.
Chúa Giêsu thấy Nathanael đi tới Mình, thì nói về ông: “Đây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối”. Nathanael đáp: “Sao Ngài biết tôi?” Chúa Giêsu trả lời rằng: “Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi”. Nathanael thưa lại rằng: “Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel”. Chúa Giêsu trả lời: “Vì Ta đã nói với ngươi rằng: Ta đã thấy ngươi dưới cây vả, nên ngươi tin, ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa”. Và Người nói với ông: “Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người”.
Đó là lời Chúa.

23/08/19 Thứ Sáu Tuần XX Mùa Thường Niên


BÀI ĐỌC I: R 1, 1. 3-6. 14b-16. 22
“Bà Nôêmi cùng nàng dâu người Moab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem”.
Khởi đầu sách truyện Bà Ruth.
Khi các quan án cầm quyền, thì dưới thời một quan án kia, trong xứ xảy ra nạn đói kém. Có một người thành Bêlem, thuộc chi tộc Giuđa, đem vợ và hai con sang cư ngụ trong miền Môab.
Và Elimêlech, chồng bà Nôêmi, qua đời, để bà lại với hai con. Hai con bà cưới hai thiếu nữ Môab làm vợ: một tên là Orpha, còn người kia tên là Ruth. Họ chung sống ở đó được mười năm, thì cả hai người chồng là Mahalon và Kêlion cũng qua đời, còn lại mình bà Nôêmi không chồng con. Bấy giờ bà Nôêmi cùng với hai nàng dâu định bỏ đất Môab trở về quê hương, vì nghe nói Chúa thương dân Người, và ban cho họ lương thực.
Bà Orpha hôn mẹ chồng và ở lại đó. Còn bà Ruth thì đi theo mẹ chồng. Bà Nôêmi bảo bà Ruth rằng: “Kìa, chị dâu con đã ở lại với dân mình và các thần minh của họ, con hãy ở lại với chị con”. Bà Ruth thưa lại rằng: “Xin mẹ đừng bắt con bỏ mẹ mà ở lại, vì mẹ đi đâu thì con cũng đi theo đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, và Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con”.
Vậy bà Nôêmi cùng nàng dâu người Môab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem, vào đầu mùa gặt lúa.
Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 145, 5-6. 7. 8-9a. 9bc-10
Đáp:Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa (c. 2a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Đấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng. – Đáp.
2) Người là Đấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. – Đáp.
3) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. – Đáp.
4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường lối đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. – Đáp.

ALLELUIA: Mt 11, 25
Alleluia, alleluia! – Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 22, 34-40
“Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại. Đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?” Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”.
Đó là lời Chúa.

22/08/19 Thứ Năm Tuần XX Mùa Thường Niên


BÀI ĐỌC I: Tl 11, 29-39a
“Hễ người nào ra khỏi cửa nhà trước hết, tôi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu”.
Trích sách Thủ Lãnh.
Trong những ngày ấy, Thần Trí của Chúa ngự trên ông Giéphtê, ông liền đi quanh đất Galaad, Manassê, (rồi) Maspha (của) Galaad, và từ đó tiến sang đánh con cái Ammon. Ông thề hứa với Chúa rằng: “Nếu Chúa trao con cái Ammon vào tay con, thì khi con từ đất con cái Ammon trở về bình an, hễ người nào ra khỏi nhà con và đón tiếp con trước hết, con sẽ dâng nó cho Chúa làm của lễ toàn thiêu”.
Ông Giéphtê liền trẩy sang đánh con cái Ammon, Chúa đã trao chúng trong tay ông. Ông đã đánh phá hai mươi thành trong một trận ác liệt, từ Arôê đến cửa thành Mennith, và đến Abel Kêramim. Con cái Ammon bị con cái Israel hạ nhục. Khi ông Giéphtê trở về nhà ở Maspha, người con gái duy nhất ra với hội hát trống phách đón rước ông, vì ông chẳng có người con nào khác. Khi thấy đứa con gái, ông liền xé áo mình ra mà kêu lên rằng: “Con ơi, con làm khổ cha, con cũng khổ nữa, vì cha đã khấn hứa cùng Chúa, và cha không thể làm gì khác được”. Người con gái đáp: “Cha ơi, nếu cha đã khấn hứa cùng Chúa, thì cha cứ làm cho con mọi điều cha đã thề hứa, vì Chúa ban cho cha được trả thù và thắng kẻ thù của cha”. Cô lại nói với cha rằng: “Con chỉ xin cha điều này: xin cha cho con hai tháng, để con cùng các bạn con đi quanh núi đồi mà than khóc tuổi thanh xuân của con”. Người cha đáp: “Con cứ đi”. Và ông đã cho cô đi hai tháng. Khi cô ra đi làm một với bạn nghĩa thiết của cô, thì cô than khóc tuổi thanh xuân của cô trên núi đồi. Sau hai tháng, cô trở về nhà cha cô, và ông đã thi hành như ông đã thề hứa.
Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 39, 5. 7-8a. 8b-9. 10
Đáp: Lạy Chúa, này con xin đến, để thực thi ý Chúa (c. 8a & 9a).
Xướng:
1) Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa, không theo kẻ thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà. – Đáp.
2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: “Này con xin đến”. – Đáp.
3) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. – Đáp.
4) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong Đại Hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. – Đáp.

ALLELUIA: Tv 147, 12a và 15a
Alleluia, alleluia! – Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Đấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 22, 1-14
“Các ngươi gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: “Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: ‘Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới’. Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: ‘Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới’. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: ‘Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?’ Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: ‘Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!’ Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít”.
Đó là lời Chúa.

21/08/19 Thứ Tư Tuần XX Mùa Thường Niên

BÀI ĐỌC I: Tl 9, 6-15
“Đang khi Chúa ngự trị giữa chúng tôi, các ngươi đã nói: ‘Xin cho một vua cai trị chúng tôi'”.
Trích sách Thủ Lãnh.
Khi ấy, mọi người Sikem và tất cả các gia tộc thành Mêllô tụ họp lại, rồi kéo nhau đến gần cây sồi ở Sikem, và tôn Abimêlech lên làm vua.
Khi ông Giotham nghe tin ấy, liền đi lên đứng trên đỉnh núi Garizim, lớn tiếng kêu lên rằng: “Hỡi người Sikem, hãy nghe ta, để Thiên Chúa cũng nghe các ngươi. Các cây cối đều đến xức dầu phong một vị vua cai trị chúng, và nói cùng cây ôliu rằng: ‘Hãy đi cai trị chúng tôi’. Cây ôliu đáp lại rằng: ‘Chớ thì ta có thể bỏ việc sản xuất dầu mà các thần minh và loài người quen dùng, để được lên chức cai trị cây cối sao?’ Các cây cối nói cùng cây vả rằng: ‘Hãy đến cầm quyền cai trị chúng tôi’. Cây vả trả lời rằng: ‘Chớ thì ta có thể bỏ sự ngọt ngào của ta, bỏ hoa trái ngon lành của ta, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?’ Các cây cối nói với cây nho rằng: ‘Hãy đến cai trị chúng tôi’. Cây nho đáp rằng: ‘Chớ thì ta có thể bỏ việc cung cấp rượu, là thứ làm cho Thiên Chúa và loài người được vui mừng, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?’ Tất cả những cây cối nói với bụi gai rằng: ‘Hãy đến cai trị chúng tôi’. Bụi gai trả lời rằng: ‘Nếu các ngươi thật lòng đặt ta làm vua các ngươi, thì các ngươi hãy đến nghỉ dưới bóng ta. Nhưng nếu các ngươi không muốn thì sẽ có lửa từ bụi gai phát ra thiêu huỷ các cây hương nam núi Liban'”.
Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 20, 2-3. 4-5. 6-7
Đáp: Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng (c. 2a).
Xướng:
1) Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa chẳng chối từ.- Đáp.
2) Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng. – Đáp.
3) Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan. – Đáp.

ALLELUIA: Tv 118, 135
Alleluia, alleluia! – Xin Chúa tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 20, 1-16a
“Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.
“Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: ‘Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng’. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
“Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: ‘Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?’ Họ thưa rằng: ‘Vì không có ai thuê chúng tôi’. Ông bảo họ rằng: ‘Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta’.
“Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: ‘Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết’. Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Đang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: ‘Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?’ Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: ‘Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?’
“Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”.
Đó là lời Chúa.

20/08/19 Thứ Ba Tuần XX Mùa Thường Niên


BÀI ĐỌC I: Tl 6, 11-24a
“Hỡi Giêđêon, hãy đi giải thoát Israel: ngươi biết Ta thương xót ngươi”.
Trích sách Thủ Lãnh.
Trong những ngày ấy, Thiên thần Chúa đến ngồi dưới gốc cây sồi ở đất Êphra, thuộc sở hữu của ông Gioas, tổ gia tộc Abiêzer. Khi ấy, Giêđêon, con trai của ông, đang đập và rê lúa trong nhà ép nho để tránh mắt quân Mađian, thì Thiên thần Chúa hiện ra với ông và nói rằng: “Hỡi người dũng sĩ, Chúa ở cùng ngươi”. Giêđêon thưa lại rằng: “Thôi, xin Ngài, nếu Chúa ở cùng chúng tôi, tại sao chúng tôi phải chịu tất cả những sự này? Nào đâu những việc kỳ diệu của Chúa mà cha ông chúng tôi đã kể lại cho chúng tôi mà rằng: ‘Chúa đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai-cập’? Nhưng nay Chúa lại bỏ rơi chúng tôi và trao chúng tôi vào tay quân Mađian”. Chúa nhìn ông mà phán rằng: “Ngươi hãy mạnh mẽ tiến đi mà giải thoát Israel khỏi tay quân Mađian: chính Ta sai ngươi đó”. Ông thưa lại rằng: “Thôi, xin Chúa, con dựa vào đâu mà giải thoát Israel? Đây gia đình con là gia đình rốt hết trong chi tộc Manassê, và con là con út trong nhà cha con”. Chúa phán cùng ông rằng: “Ta sẽ ở cùng ngươi: ngươi sẽ đánh ngã quân Mađian như đánh một người vậy”. Ông thưa rằng: “Nếu con đẹp lòng Chúa, thì xin Chúa ban cho con một dấu chứng rằng chính Chúa phán dạy con. Xin Chúa chớ lìa khỏi nơi đây cho đến khi con trở lại cùng Chúa, mang theo của lễ dâng lên Chúa”. Chúa đáp lại rằng: “Ta sẽ đợi ngươi trở lại”.
Vậy Giêđêon vào nhà làm thịt một con dê đực, lấy một đấu bột làm bánh không men: để thịt vào giỏ, đổ nước thịt vào nồi, mang các món đó đến dưới cây sồi mà dâng cho Chúa. Thiên thần Chúa bảo ông rằng: “Ngươi hãy đem thịt và bánh không men đặt trên tảng đá kia, rồi đổ nước thịt lên trên”. Khi ông làm như vậy, thì Thiên thần Chúa giơ cây gậy Người cầm trong tay lên và chạm đến thịt và bánh không men, tức thì có lửa từ tảng đá bốc lên thiêu đốt thịt và bánh không men. Thiên thần Chúa liền biến đi khuất mắt ông. Giêđêon nhận biết đó là Thiên thần Chúa, liền thưa rằng: “Ôi, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con đã nhìn thấy Thiên thần Chúa nhãn tiền”. Chúa phán cùng ông rằng: “Bình an cho ngươi. Đừng sợ, ngươi không chết đâu”. Giêđêon liền dựng một bàn thờ dâng kính Chúa, và gọi bàn thờ đó là “Bình an của Chúa”.
Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 84, 9. 11-12. 13-14
Đáp: Chúa phán bảo về sự bình an cho dân tộc Người (x. c. 9).
Xướng:
1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những ai thành tâm trở lại với Người. – Đáp.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. – Đáp.
3) Vâng Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất Nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Đức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài. – Đáp.

ALLELUIA: Tv 118, 36a và 29b
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 19, 23-30
“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời”. Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: “Vậy thì ai có thể được cứu độ?” Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được”. Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: “Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?” Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết”.
Đó là lời Chúa.

Từ trong tù ĐHY Pell viết: Giáo hội không thể cho phép bất kỳ sự mơ hồ nào


Đức Hồng Y George Pell đã viết một lá thư cảm ơn những người ủng hộ vì những lời cầu nguyện của họ và nói rằng ngài thấy âu lo trước những chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng Giám Mục sắp tới về Amazon.
Hình chụp văn bản của bức thư viết tay dài hai trang đã được lưu hành trong số những người ủng hộ gần gũi nhất của Đức Hồng Y Pell ở Úc và đã được gởi đến các thông tấn xã Công Giáo, kèm theo lời xác nhận của các nguồn tin thân cận với Đức Hồng Y Pell.
Trong bức thư, đề ngày mùng một tháng Tám từ Nhà tù Lượng Định Melbourne, Đức Hồng Y cũng cho biết đức tin và những lời cầu nguyện của các tín hữu nâng đỡ ngài trong cảnh tù tội và ngài phó dâng những đau khổ phải chịu trong tù vì thiện ích của Giáo Hội.
“Nhận thức rằng những đau khổ nhỏ nhoi của tôi có thể được sử dụng cho những mục đích tốt nhờ được kết hiệp trong đau khổ của Chúa Giêsu, đem lại cho tôi mục đích và phương hướng,” Đức Hồng Y Pell viết trong thư. “Những thách thức và những vấn nạn trong đời sống Giáo hội cũng cần phải được đối diện với một tinh thần đức tin tương tự.”
Đức Hồng Y Pell viết tiếp rằng, “chúng ta có những lý do để âu lo trước Tài Liệu Làm Việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Amazon”, được công bố hồi tháng Sáu để chuẩn bị cho cuộc họp tháng Mười.
Tài liệu đó, là nguồn gốc của các cuộc thảo luận và những lời bình luận sôi nổi, đặc biệt là về vấn đề phong chức cho những người “viri probati”, tức là những người nam trưởng thành trong đức tin, đã kết hôn, nhằm đáp lại tình trạng thiếu các linh mục trong vùng.
Tài liệu làm việc, kêu gọi “một Giáo hội có khuôn mặt bản địa”, tiếp tục khuyến nghị rằng Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng nên xác định một chức danh chính thức có thể được trao cho các phụ nữ, có tính đến vai trò trung tâm mà họ đang đóng góp trong Giáo Hội trong vùng Amazon.
“Đây không phải là tài liệu đầu tiên có phẩm chất thấp mà ban thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục đưa ra,” Đức Hồng Y Pell nhận xét.
Liên hệ đến những cuộc tranh luận và những lời chỉ trích đáng kể đối với chương trình nghị sự của Thượng Hội Đồng – trong đó bao gồm cả những lời kêu gọi thay đổi các chất liệu được sử dụng để cử hành Thánh lễ – Đức Hồng Y Pell lưu ý rằng Đức Hồng Y Müller, trước đây là tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, đã viết một bài phê bình rất xuất sắc.
Mặc dù đã từng du lịch đến các vùng trong khu vực Amazon, Đức Hồng Y cho biết “Tôi không phải là chuyên gia về khu vực này.” Nhưng ngài cảnh báo rằng, “về vấn đề Amazon, rất nhiều vấn đề vẫn chưa được khai thông trước Thượng Hội Đồng.”
“Một điểm cơ bản đó là Tông Truyền, giáo huấn của Chúa Giêsu và các Tông đồ, được kín múc từ Tân Ước và được dạy dỗ bởi các Đức Giáo Hoàng và các Công Đồng, bởi Huấn Quyền Hội Thánh, phải là tiêu chí duy nhất về tín lý cho tất cả các giáo huấn về đạo lý và thực hành.”
Đức Hồng Y nhấn mạnh rằng:
“Dù có Amazon hay không có Amazon, ở mọi vùng đất, Giáo hội không thể cho phép bất kỳ sự mơ hồ nào, chứ đừng nói là các giáo huấn mâu thuẫn, và gây thiệt hại cho Truyền thống Tông đồ.”
Ngài đặc biệt nhắc đến sự cần thiết phải hiệp nhất trong các yếu tố thiết yếu liên quan đến giáo huấn của Chúa Kitô, đồng thời kêu gọi lòng bác ái trong tất cả mọi sự.
“Chúng ta phải luôn nhớ rằng Giáo hội là một, không chỉ theo nghĩa là các gia đình tốt lành gắn bó với nhau, bất kể sự khác biệt của họ, nhưng bởi vì Giáo hội của Chúa Kitô đặt nền tảng nơi Giáo Hội Công Giáo, là nhiệm thể của Chúa Kitô.”
Trong thư, Đức Hồng Y Pell nói rằng ngài đã nhận được từ 1500-2000 tin nhắn hiệp thông và nâng đỡ ngài trong thời gian tù tội và ngài có ý định trả lời tất cả những tin nhắn này.
Những lời cầu nguyện và thư của tín hữu “mang đến cho tôi niềm an ủi to lớn, cả về hai mặt nhân bản và thiêng liêng.”
“Niềm tin của tôi vào Chúa, giống như niềm tin của anh chị em bạn vào Ngài, là nguồn sức mạnh.”
Đặng Tự Do

Tiểu Sử Thánh Nữ Faustina Kowalska

TIỂU SỬ THÁNH NỮ FAUSTINA KOWALSKA

Tiểu Sử

Thánh Nữ Faustina Kowalska

(1905- 1938)

“Cha đã thương con bằng một tình yêu muôn thuở; Cha đã lôi cuốn con bằng lòng thương xót của Cha” (Jeremiah 31: 3).
Tên tuổi thánh nữ Maria Faustina Kowalska phép Thánh Thể, nữ tu dòng Đức Mẹ Nhân Lành, đã được biết đến trên khắp các lục địa. Sự quan tâm đến đời sống thánh nữ Faustina phần lớn là do sứ mạng toàn cầu Chúa Giêsu đã ủy thác cho chị thánh, và niềm tin vào lời cầu bầu thần thế của chị thánh cho những lời thỉnh nguyện.
Thánh nữ Faustina chào đời ngày 25 tháng 8 năm 1905 tại Glogowiec, Ba Lan, và được đặt tên là Helen Kowalska. Thánh nữ là con thứ ba trong số mười người con của một gia đình nông dân nghèo khó và khiêm nhường. Thân phụ của thánh nữông Stanley Kowalska – là một người đạo hạnh, luôn tham dự các thánh lễ Chúa Nhật, đọc kinh Nhật Tụng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm hàng ngày, và ngắm sự Thương Khó Chúa Giêsu trong mùa Chay. Không bao giờ chểnh mảng với các vịệc đạo đức, ông luôn luôn là người thức dậy sớm nhất và lớn tiếng bắt kinh cho cả nhà. Ông sống rất kỷ cương với những người chung quanh, và điều hành một gia đình nề nếp.
Thân mẫu thánh nữ Faustina – bà Marianna – là người phụ nữ quảng tâm, cần cù, và có tinh thần hy sinh. Cuộc đời của bà nổi bật với đức tính hy sinh trong việc phị giúp chồng và nuôi dạy 10 người con, hai trai, tám gái. Thánh nữ Faustina được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy ngày 27 tháng 8 năm 1905, tại nhà thờ giáo xứ Swinice, Warckie, và được đặt tên là Helen. Ngay từ khi còn nhỏ, Helen đã trổi vượt về sự mộ mến cầu nguyện, làm việc, vâng lời, và nhất là lòng thương cảm đối với những người nghèo khó.
Năm lên 7 tuổi, lần đầu tiên Halen được cảm nhận những soi động về ơn gọi sống đời sống tu trì, ơn đặc biệt sống đời thánh hiến và gắng đạt đến sự trọn lành. Tuy nhiên, Helen không tìm được một ai giải thích cho chị hiểu về điều ấy, và song thân cũng không chấp thuận ý tưởng xin vào tu trong một hội dòng của chị.
Năm lên 9 tuổi, Helen được xưng tội và rước lễ lần đầu. Trong giây phút đắm đuối ấy, chị đã nhận được sự hiện diện của Vị Thượng Khách Thần Linh trong linh hồn mình. Rước lễ đầu tiên là biến cố quan trọng trong cuộc đời Helen. Chị luôn luôn nghĩ tưởng đến mầu nhiệm sự hiện diện ẩn khuất của Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể.
Có hai người láng giềng vẫn còn nhớ những chi tiết về ngày Helen được rước lễ lần đầu. Hôm ấy Helen từ thờ đi về một mình, đắm đuối và trầm tư.
Một người láng giềng hỏi, “Sao em không đi với những trẻ khác?” Helen hết sức nghiêm trang đáp lại, “Tôi đang có Chúa Giêsu trong mình”.
Đi được một quãng nữa, Helen gặp một trẻ nữ khác, và được hỏi, “Hôm nay sung sướng chứ?” Helen đáp lại, “Dĩ nhiên rồi, cứ nhìn vào bộ đồ dễ thương mình đang mặc đây thì biết.”
“Mình sung sướng vì Chúa Giêsu đã đến với mình.” Helen khẽ nói, mỉm cười rạng rỡ giữa lúc được cảm nghiệm sự kết hợp với Thiên Chúa trong linh hồn mình lần đầu tiên.
Thánh nữ Faustina rất có lòng sùng kính bí tích Thánh Thể, đến nỗi hầu như mọi trang nhật ký của chị đều có nhắc đến bí tích này.
Cuộc sống muôn đời (Chúa Giêsu phán với chị) phải bắt đầu ngay từ dưới trần thế qua việc hiệp lễ. Mỗi lần hiệp lễ đều tăng thêm cho con nhiều khả năng để kết thân với Thiên Chúa trong cõi đời đời (NK 1811).
Một lần khác, thánh nữ Faustina đã ghi lại trong Nhật Ký:
“Tôi thấy mình quá yếu đuối đến nỗi nếu không nhờ hiệp lễ, có lẽ tôi không ngừng bị sa ngã. Chỉ có một sức nâng đỡ cho tôi, đó là hiệp lễ. Từ đó, tôi kín múc được nguồn sức mạnh, đó là sự thư thái của tôi. Tôi hoảng sợ phải sống những ngày không được rước Thánh Thể. Tôi sợ chính bản thân mình. Chúa Giêsu ẩn ngự trong Bánh Thánh là tất cả cho tôi. Từ nhà tạm, tôi kín múc được sức mạnh, năng lực, can đảm và ánh sáng. Ở đó tôi tìm được sự an ủi trong giờ thống khổ. Nếu như không có Thánh Thể trong lòng, tôi không biết phải làm cách nào để tôn vinh Thiên Chúa” (NK 1037).
Ngày 30 tháng 10 năm 1921, Halen đã được Đức Cha Vincent Tymieniecki của giáo phận Aleksandrow – Lodz ban bí tích Thêm Sức. Trong thời gian này, Helen đang sống xa nhà và giúp việc cho một gia đình khác.
Helen được dưỡng dục dưới ánh mắt dịu hiền quán xuyến của người mẹ, và biết gánh nặng đỡ đần nghèo khó của gia đình. Thân phụ thánh nữ rất nghiêm khắc đòi buộc các con trai, cũng như gái, phải làm quen với công việc ngay từ còn nhỏ. Những đứa con trai chưa đến chín tuổi đã phải giúp việc đồng áng. Helen phụ giúp với mẹ trong việc bếp núc, dẫn bò ra đồng và coi sóc các em nhỏ, dạy cho chúng biết vâng lời. Với bản tính nhân ái, chăm chỉ, vâng lời, tiên liệu được nhu cầu của người khác và sẵn lòng giúp đỡ, nên Helen đã trở thành đứa con được quí mến trong gia đình là điều không có gì lạ.
Theo hồ sơ của trường học địa phương, khi đã 12 tuổi, Helen mới cắp sách đến trường tịa Suinice Warckie vào năm 1917. Helen không thể đi học sớm hơn vì nhà trường bị đóng cửa trong thời kỳ quân Nga chiếm đóng Ba Lan. Vì đã biết đọc nên Helen vào thẳng lớp hai. Helen là một học sinh tốt . Thực vậy một lần kia, khi vị thanh tra đến hăm trường, Helen đã được phần thưởng xuất sắc vì đọc thuộc lòng bài thơ “Cuộc Trở Về Của Người Cha” của thi sĩ Adam Mickiewicz.
Vào mùa xuân 1919, những học sinh nhiều tuổi nhất đành phải thôi học vì nhà cầm quyền quyết định dành chỗ cho các trẻ khác mới nhập học. Helen khi ấy mới học lớp ba.
Đến năm 14 tuổi, Helen đã rời gia đình để đi làm như một người giúp việc tại Aleksandrow và tại Lodz, với mục đích tự lập và giúp đỡ gia đình. Helen ngụ tại gia đình thân quen và sống gần gũi với Helen Bryszewska trước khi trở về sống với gia đình.
Năm 18 tuổi, Helen mới ngỏ ý với mẹ về ước muốn vào tu trong một tu viện. Khi thân phụ biết tin, ông đã kịch liệt phản đối: “Mày không biết mày muốn gì cả. Để cho mày đi với bà phước, tao phải nộp một món tiền không sao liệu nổi. Tao chỉ có nước mang nợ mà thôi”. Helen thưa lại, “Nhưng thưa cha, con đâu có cần tiền bạc. Chúa Giêsu sẽ đưa con vào dòng”.
Đáp lại ơn gọi.
Một ngày kia, đang khi cùng với người em gái tham gia một cuộc khiêu vũ, bỗng nhiên Helen nhìn thấy Chúa Giêsu đau khổ, mình đầy những thương tích. Người phán với chị: “Cha còn phải chịu đựng con cho đến bao giờ, con còn phụ rẫy Cha cho đến bao giờ nữa đây?” (NK 9).
Cuộc thị kiến làm Helen xao xuyến đến cực độ. Biết mình không thuộc về nơi đó nữa, Helen giả bộ nhức đầu, rồi rời bỏ đám hội và tìm đến một nhà thờ. Tại đó trước bí tích Thánh Thể, Helen đã xin Chúa cho biết Người muốn gì về chị. Và chị được nghe những lời này:
“Con hãy đến gặp vị Linh Mục ấy (cha James Dabrowski, cha sở giáo xứ Thánh Gicôbê) và cho ngài biết tất cả; ngài sẽ dạy con phải làm gì tiếp theo” (NK 12).
Khi thánh lễ chấm dứt, Helen lên phòng áo và thưa với vị linh mục về mọi điều đã xẩy ra trong linh hồn. Chị xin vị linh mục hướng dẫn để biết nên vào tu viện nào.
Lúc đầu, vị linh mục cảm thấy ngạc nhiên, nhưng ngài khuyên chị hãy hoàn toàn tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ an bài mọi sự. Trước mắt, ngài gửi Helen đến ngụ tại nhà một phụ nữ đạo đức cho đến khi vào dòng. Và như thế, Helen bắt đầu tìm cách gia nhập một hội dòng. Tuy nhiên, mọi tu viện chị đến gõ cửa đều khước từ tất cả. Nỗi buồn phiền lại bao chiếm tâm hồn, và Helen thưa lên cùng Chúa Giêsu, “Lạy Chúa, xin giúp con, xin đừng để con bơ vơ” (NK 11-13).
Vào tháng 8 năm 1924, Helen đến gõ cửa tu viện tọa lạc ở số 3/9 phố Zytnia tại Warsaw của dòng Đức Mẹ Nhân Lành. Tuy nhiên, trước khi ra tiếp khách, qua cánh của mở, bà Bề Trên đã nhìn thấy một thiếu nữ với một ngoại hình không chút ấn tượng nào. Khi Helen chưa kip nhìn thấy Bề Trên, thì bà đã trở vào và sai môt nữ tu khác ra bảo Helen hãy về đi.
Về sau, bà Bề Trên kể lại “Vào lúc ấy, tôi chợt nghĩ rằng bảo người ta đi mà không trao đổi ít ra một đôi lời với họ là thiếu đức ái. Theo ơn soi sáng ấy, tôi trở ra và đến gần, tôi phát hiện ra thiếu nữ ấy có một nét rất đặc biệt: một nụ cười hiền hậu, trên khuôn mặt khả ái. Nét đơn sơ và cách phục sức giản dị của thiếu nữ ấy đã thắng được tôi”.
Bế Trên truyền cho Helen đến gặp Chủ Nhà và hỏi Người có muốn tiếp nhận chị không. Helen hiểu ngay là chị phải đến với Chúa Giêsu.
Thánh Nữ đã ghi lại việc này như trong Nhật Ký:
Hết sức vui mừng, tôi lên nhà nguyện và xin Chúa Giêsu, “Thưa Chủ Nhân của nhà này, Chúa có nhận con không?” Một nữ tu ở đây đã dạy con phải thưa với Chúa như vậy.”
Tức thì tôi nghe được lời này: “Cha nhận con ở trong trái tim Cha”. Khi ra khỏi nhà nguyện mẹ Bề Trên liền hỏi “A, Chúa đã nhận rồi phải không?” Tôi thưa vâng ạ” (Mẹ nói) “Nếu Chúa nhận thì tôi cũng nhận” (NK 14).
Helen đã được nhận vào dòng như thế. Mặc dù vậy, vì nhiều lý do khác, chị vẫn còn phải sống ngoài thế gian thêm một năm nữa, nhưng không trở về gia đình cho đến khi trở thành nữ tu Faustina.
Helen gia nhập dòng Các Nữ Tu Đức Mẹ Nhân Lành tại Warsaw vào ngày 1 tháng 8 năm 1925, ngày vọng lễ các Thiên Thần. Helen cảm thấy tràn ngập hạnh phúc. Dường như chị đã bước vào cuộc sống thiên đàng. Một lời kinh chợt phát ra từ tâm hồn chị, một lời kinh tạ ơn.
Tuy nhiên, sau đó ba tuần lễ, chị cảm thấy có ít thời giờ cho việc cầu nguyện. Nhiều vấn đề khác lại xúi dục chị hãy chuyển sang một cộng đoàn nghiêm nghặt hơn. Tư tưởng này bám riết với tâm hồn chị, nhưng đó không phải là thánh ý Chúa. Tuy nhiên, tư tưởng ấy, đúng hơn là cơn cám dỗ, càng ngày càng mãnh liệt đến độ chị quyết định một ngày nào đó sẽ trình với mẹ Bề Trên để xin ra đi.
Nhưng Chúa lại sắp xếp hoàn cảnh khác không cho Helen trình bày được với mẹ Bề Trên. Chị lên nhà nguyện và xin Chúa ban ơn soi sáng về vấn đề này, nhưng chẳng nhận được gì trong linh hồn. Chị trở về phòng riêng, lòng đầy những cay cực và trằn trọc, không biết phải làm gì. Mọi nơi cũng như Nhà Tạm đều vắng lặng như tờ. Sau đó một lúc, một luồng sáng chứa chan trong phòng. Rồi trên bức màn, Helen nhìn thấy thánh nhan Chúa Giêsu ưu phiền. Có những thương tích đang há miệng và hai giọt nước mắt đang nhỏ xuống trên nhan thánh Chúa.
Không hiểu được ý nghĩa của tất cả điều ấy, Helen lên tiếng hỏi Chúa Giêsu:
“Lạy Chúa Giêsu, ai đã làm cho Chúa đau đớn dường ấy?”
Và Chúa phán với chị:
“Chính con gây cho Cha nỗi đau đớn này nếu như con rời bỏ tu viện. Đây là nơi Cha đã gọi con, chứ không phải nơi nào khác; và Cha đã dọn sẵn nhiều ơn thánh cho con. Helen đã nài xin Chúa tha thứ và lập tức thay đổi quyết định của mình (NK 18-19).
Cuối cùng vào ngày 30 tháng 4 năm 1926, Helen được gia nhập tập viện, lãnh tu phục và được nhận tên gọi mới Maria Faustina, tên này về sau được chị thêm mấy chữ “phép Thánh Thể” vào nữa. Trong thời gian hai năm, tập sinh Faustina cho thấy chị rất tha thiết với ơn thiên triệu, và kết quả là được nhận cho khấn tạm lần đầu vào ngày 30 tháng 4 năm 1928.
Cha mẹ của Faustina được đến tham dự nghi lễ và gặp gỡ chị trong dịp khấn dòng. Thấy con rạng rỡ niềm vui, thân phụ đã hỏi chị: “Vậy con không bao giờ cảm thấy chán ở đây à?” Chị đáp lại, “Làm sao có thể chán khi được sống dưới cùng một mái nhà với Chúa?
Trên đường về, thân phụ của chị Faustina nhiều lần cứ lẩm bẩm: “Nó yêu mến Chúa Giêsu quá lắm! Chúng ta phải để cho nó yên. Đó là thánh ý Chúa.”
Vĩnh Thệ và Đời Sống Nội Tâm Phong Phú
Vào ngày mồng 1 tháng năm 1933, nữ tu Faustina phép Thánh Thể đã được tuyên khấn trọn đời. Chị sống trong hội dòng Các Nữ Tu Đức Mẹ Nhân Lành được mười ba năm, đảm nhận các công tác như làm bếp, coi vườn, giữ cổng tại nhiều trụ sở của dòng tại Plock, Vilnius, và Krakow. Trong tất cả các nơi ấy, chị thánh đã trung thành với những tục lệ của cộng đoàn và tận tâm chu toàn các việc phận sự.
Bề ngoài, không có gì cho thấy cuộc sống phong phú nơi nội tâm chị thánh. Chị sốt sắng chu toàn các công tác và trung thành giữ trọn luật dòng. Chị thánh có một cuộc sống tịnh hiệp cao độ, nhưng rất tự nhiên, thanh thản, và có một đức ái vô điều kiện với người chung quanh. Mặc dù bên ngoài, đời sống chị thánh xem ra vô nghĩa và đơn điệu, nhưng bên trong là một sự kết hiệp ngoại thường với Thiên Chúa. Từ khi còn nhỏ, chị đã ước ao trở nên một vị đại thánh, và với lòng kiên định, chị đã hoàn thành hoài bão này đến mức hiến dâng chính cuộc sống cho các tội nhân.
Những năm sống trong dòng của thánh nữ Faustina tràn đầy những ân huệ ngoại thường: hưởng những lần thị kiến, các dấu thánh kín ẩn, chia sẻ cuộc thương khó của Chúa, hiện diện hai nơi cùng một lúc, đọc được tâm hồn người khác, nói tiên tri, và được đặc ân cao quí là kết ước nhiệm hôn cùng Chúa.
Mối tương giao sống động giữa chị thánh với Thiên Chúa, Đức Mẹ, các thiên thần, các vị thánh, các linh hồn luyện ngục – toàn bộ thế giới vô hình – cũng thực tế như thế giới hữu hình mà chị thánh cảm nhận được qua các giác quan.
Đời sống đạo đức của thánh nữ Faustina chủ yếu tập trung vào việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa. Rõ ràng, nhờ hội dòng đặc biệt của mình, chị thánh đã chuẩn bị đầy đủ cho các công việc sứ mạng. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là ngoài nếp sống của dòng, chị thánh còn có một lòng sùng kính ngoại thường với Thánh Tâm Chúa Giêsu và Thánh Thể, bí tích mà qua đó, Lòng Thương Xót Chúa đã đổ chan hòa cho chúng ta.
Chúa đã ủy thác cho chị nữ tu hèn mọn nhưng mạnh mẽ, khiêm nhượng, và tín thác cao độ của Người một sứ mạng đặc biệt:
“Hiện nay Cha sai con đem tình thương của cha đến cho toàn thế giới, Cha không muốn đoán phạt, nhưng muốn chữa lành và ghì chặt nhân loại đau thương vào Trái Tim lân tuất của Cha (NK 1588).
Dù dưới cái nhìn riêng, hoặc như một phần tử trong nhà dòng, chị thánh vẫn luôn dìm mình trong bầu khí thiêng liêng luôn luôn tràn đầy Lòng Thương Xót Chúa. Vì thế không có gì lạ khi chị thánh tận hiến toàn thân cho Chúa, và chỉ sau một vài năm sống trong dòng, chị đã được Chúa Giêsu ủy thác sứ mạng nhắc nhớ cho thế giới về Lòng Thương Xót của Người.
Xét trên phương diện nhân loại, dường như thánh nữ Faustina không có đủ chuẩn bị để hoàn thành những mục tiêu Chúa đã tiền định cho chị. Nhưng rõ ràng, Thiên Chúa đã nghĩ cách khác. Bất chấp tất cả, Người đã biến đổi chị Faustina thành nên người Tông Đồ của Lòng Thương Xót Người. Thánh nữ Faustina là chứng nhân sống động của Chúa, công bố Lòng Thương Xót của Chúa bằng ngôn từ và hành động, kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu trong việc cộng tác cứu độ các linh hồn. Chính vì lý do ấy, Chúa đã muốn chị thánh sống ngày càng khắng khít hơn với Người, thắm thiết đến độ không những nhận biết “chiều dài và chiều sâu” của Lòng Thương Xót Chúa, mà còn hoàn toàn đắm đuối trong đó, để có thể chuyển thông dồi dào Lòng Thương Xót cho các linh hồn.
Chúa đã chuẩn bị chị thánh Faustina cho sứ mạng này một cách tiệm tiến. Bước quan trọng để thực hiện sứ mạng này là việc vẽ bức hình Chúa Thương Xót – theo như mẫu Người đã hiện ra tại Plock. Qua bức hình này, ý nghĩa của sứ mạng ấy trở nên rõ rệt và có nền tảng vững vàng hơn.
Điểm cốt yếu trong các lời dạy của Đấng Cứu Độ Thương Xót là việc cứu các linh hồn. Chúa Giêsu mặc khải Lòng Thương Xót của Người cho thánh nữ Faustina dưới ánh sáng của những góc nhìn luôn luôn mới mẻ, trong khi ngày càng kiên quyết yêu sách chị thánh phải hoàn toàn hiến thân.
Ý thức về sự hiện diện của Chúa và cuộc sống trong Người ngày càng trở nên hiển nhiên hơn – thấm nhuần mọi tư tưởng và tâm trí của thánh Faustina, một tâm trí giờ đây đã đựợc tràn đầy tình yêu và lòng khát khao Thiên Chúa Ba Ngôi, cùng với niềm ước vọng ngây thơ được gieo mình vào cuộc sống huyền nhiệm sâu thẳm của Người.
Chúa Giêsu muốn thánh nữ Faustina hãy làm thấm nhuần cuộc sống hàng ngày của chị bằng tinh thần Lòng Thương Xót. Nhưng đó mới là điểm khởi đầu. Điểm chính yếu của giáo huấn của Chúa là biến đổi thánh nữ Faustina nên một của lễ vĩnh viễn để phạt tạ tội lỗi của tất cả những người thân của chị thánh, kể cả những người gây nên những đớn đau tê tái nhất cho chị. Thánh nữ Maria Faustina phép Thánh Thể đã viết trong Nhật Ký của chị:
Một lần kia, trong giờ chầu, Chúa yêu cầu tôi hãy hiến thân cho Người như một của lễ bằng cách chịu đựng đau khổ để đền bồi tội lỗi của thế giới nói chung, mà còn vì những xúc phạm cụ thể trong nhà này. Tôi liền thưa: “Vâng được; con xin sẵn sàng.” Bấy giờ Chúa Giêsu cho tôi nhìn thấy những gì tôi sắp sửa chịu, và trong một giây phút, tất cả những sự đau khổ hiện lên trước mắt tôi. Lúc đầu những ý hướng của tôi, không được người ta chấp nhận; rồi sẽ có đủ thứ nghi nan, ngờ vực, xỉ nhục và chống đối. Tôi không sao kể hết ra được. Mọi thứ này lù lù trước mắt tôi như một cơn dông đen ngòm, sấm chớp sẵn sàng dáng xuống bất cứ lúc nào, chỉ còn chờ sự đồng thuận của tôi. Bản tính tự nhiên của tôi run giùng khiếp hãi một lúc. Thế rồi, chuông báo bữa tối vang lên. Tôi rời nhà nguyện vẫn còn lẩy bẩy và thiếu dứt khoát. Những hy sinh ấy vẫn luôn ở trước mắt tôi, vì tôi chưa quyết định đón nhận mà cũng chưa từ chối với Chúa. Tôi muốn đặt mình hoàn toàn trong thánh ý Chúa. Nếu Chúa Giêsu đích thân trao hy sinh ấy cho tôi, tôi sẵn sàng đón nhận. Nhưng Chúa Giêsu cho tôi biết chính tôi phải đồng ý một cách tự do và chấp nhận một cách ý thức, còn không, hy sinh ấy sẽ trở nên vô nghĩa. Toàn bộ hiệu năng của hy sinh ấy được gồm chứa trong hành vi tự do của tôi trước mặt Chúa. Nhưng đồng thời, Chúa Giêsu cũng cho tôi hiểu sự quyết định hoàn toàn trong năng lực của tôi. Tôi có thể chấp thuận hay không chấp nhận hy sinh ấy. Bấy giờ, tôi liền thưa: “Lạy Chúa Giêsu, con chấp nhận mọi sự Chúa muốn gửi đến cho con; con tín thác vào lòng nhân lành của Chúa.” Lúc đó, tôi cảm thấy mình đã tôn vinh Thiên Chúa rất nhiều nhờ hành vi này. Nhưng tôi cũng trang bị cho mình lòng nhẫn nại. Ngay khi vừa rời nhà nguyện, tôi đã phải đối đầu với thực tế (NK 190).
Trường Học Của Chúa Giêsu
Học trong trường của Chúa Giêsu không phải là điều dễ dàng. Chúa tỏ mình đến mức khôn lường. Tuy nhiên, Chúa đồng thời cũng yêu sách các linh hồn ưu tuyển phải nỗ lực tối đa. Toàn bộ chương trình của Chúa tập trung quanh những đau khổ. Chúa Giêsu truyền cho thánh nữ Faustina không những hãy đón nhận, mà còn phải tìm kiếm đau khổ như nhiên liệu cần thiết để được biến đổi lên vàng ròng trước thánh nhan Thiên Chúa.
Hiến mình cho Thiên Chúa để làm của lễ đền bồi tội lỗi các tội nhân đã là điều khó. Vậy mà linh hồn ấy còn muốn nâng đỡ các tội nhân bằng cách chấp nhận những gánh nặng tinh thần và tâm lý đang hành hạ các tội nhân để giúp họ khỏi ngã lòng – linh hồn của lễ ấy đón nhận đau khổ như bạn đồng hành của mình. Trên phương diện thể lý hay tinh thần, linh hồn ấy phải luôn sẵn sàng để không khước từ, đúng hơn là tự mình chấp nhận để biến đổi đau khổ thành của lễ đền bồi đẹp lòng Thiên Chúa. Đáng chú ý là những nỗ lực của một linh hồn như thế đã được tưởng thưởng bằng niềm hoan lạc thiêng liêng. Chúa Giêsu không che dấu niềm vui của Người, cũng không dè sẻn những lời khích lệ dành cho các môn đệ. Theo lời thánh Faustina. Chúa Giêsu đã cho chị thánh biết những lời kinh phạt tạ rất đẹp lòng Người. Chúa phán với thánh nữ Faustina:
Lời kinh của một linh hồn khiêm nhượng và yêu mến, làm giãn được cơn nghĩa nộ của Chúa Cha và kéo xuống cả một đại dương ân phúc (NK 320).
Vào một dịp khác thánh nữ Faustina đã ghi lại trong cuốn Nhật Ký:
Trong giờ thánh lễ, tôi được hiểu biết về Trái Tim Người, bản chất ngọn lửa lân ái của Người hàng rạo rực yêu thương chúng ta và Người chính là một đại dương đầy nhân từ lân tuất. Sau đó tôi nghe được lời này:
“Hỡi tông đồ Lòng Thương Xót của Cha, con hãy công bố cho toàn thế giới về Lòng Thương Xót khôn dò của Cha. Đừng chán ngại trước những khó khăn con phải đương đầu khi rao truyền tình thương của Cha. Những khó khăn này tuy làm con đau khổ, nhưng hết sức cần thiết cho việc nên thánh của con và là bằng chứng cho thấy công cuộc này là của Cha. Ái nữ của Cha ơi, con hãy tỉ mỉ ghi lại từng câu Cha dạy cho con về lòng nhân lành của Cha, bởi vì nhờ đó rất nhiều linh hồn sẽ được hưởng nhờ lợi ích” (NK 1142).
Vào một dịp khác, Chúa Giêsu phán với chị thánh:
“Trong Cựu Ước, Cha đã sai các tiên tri mang những cơn thịnh nộ đến với dân Cha. Còn hiện nay, Cha sai con đem tình thương của Cha đến cho toàn thế giới. Cha không muốn đoán phạt, nhưng muốn chữa lành và ghì chặt nhân loại đau thương, vào Trái Tim lân tuất của Cha. Cha chỉ sử dụng hình phạt khi chính họ ép buộc Cha phải làm như vậy; tay Cha rất miễn cưỡng khi phải cầm thanh gươm công thẳng. Trước Ngày Công Thẳng, Cha gửi đến ngày Xót Thương” (NK 1588).
Hởi ái nữ của Cha, con hãy nói cho các linh mục về Lòng Thương Xót khôn lường của Cha. Những ngọn lửa thương xót đang bừng cháy trong Cha kêu gào được phung phát; Cha muốn trào đổ mãi cho các tâm hồn; trái lại, các linh hồn lại không muốn tin vào lòng nhân lành của Cha (NK 177).
Ái nữ của Cha ơi, nếu Cha muốn qua con mà đòi mọi người tôn sùng Lòng Thương Xót của Cha, thì con phải là người trước tiên trổi vượt trong niềm tin tưởng vào lòng thương xót ấy. Cha đòi hỏi con những hành vi nhân ái được thực hiện và yêu mến Cha. Ở mọi nơi trong mọi lúc, con hãy tỏ lòng nhân ái với người lân cận. Con không được thoái thác, kiếm cớ chữa mình hay tự miễn cho mình điều ấy.
Cha ban cho con ba phương thế để sống nhân ái với người chung quanh: thứ nhất – bằng hành vi, thứ hai – bằng ngôn từ, thứ ba – bằng cầu nguyện. trong ba cấp độ này hàm chứa lòng nhân ái sung mãn và bằng chứng không thể nghi ngờ về tình yêu dành cho Cha. Bằng cách này, một linh hồn sẽ tôn vinh và sùng kính Lòng Thương Xot Cha (NK 742).
Vào tháng 5 năm 1935 thánh nữ Faustina đã viết trong Nhật Ký:
Khi ý thức những chương trình vĩ đại Thiên Chúa dành cho tôi, tôi kinh hãi trước tầm mứn lớn lao và cảm thấy hoàn toàn bất lực trước những chương trình ấy. Tôi bắt đầy trốn tránh các cuộc chuyện vãn nội tâm với Chúa, bằng cách nhồi nhét cho kín thời giờ bằng những lời khẩu nguyện. Tôi làm điều đó chỉ vì khiêm nhượng, nhưng tôi nhận ra ngay đó không phải là khiêm nhượng thật, đúng hơn là một cám dỗ do thần dữ. Vào một dịp kia, thay vì tâm nguyện, tôi đã đọc sách thiêng liêng, và trong linh hồn đã nghe những lời này một cách rõ ràng và mạnh mẽ:
“Con hãy sửa soạn thế giới cho lần đến sau cùng của Cha”.
Những lời này đánh động tôi thật sâu xa, và mặc dù giả vờ như không nghe thấy, nhưng tôi hiểu rất rõ ràng và không còn nghi ngờ gì nữa về những lời ấy. Một lần kia, vì quá mệt nhọc trong cuộc chiến tình yêu với Thiên Chúa và cứ phải thường xuyên thoái thác, viện cớ không đủ sức lực thực hiện công việc, tôi muốn ra khỏi nhà nguyện, nhưng một sức mạnh đã giữ tôi lại và tôi thấy mình bất lực. Khi ấy, tôi được nghe những lời này: Con muốn rời nhà nguyện, nhưng con sẽ không rời Cha được, vì Cha ở khắp nơi. Con không tự mình làm được việc gì, nhưng với Cha, con có thể làm được mọi sự (NK 429).
Loan Báo Lòng Thương Xót Chúa.
Sứ mạng của thánh nữ Maria Faustina phép Thánh Thể là loan báo thánh ý của Thiên Chúa, là công bố cho toàn thế giới biết về Lòng Thương Xót của Người. Một lần kia, Chúa Giêsu đã phán với thánh nữ:
“Hỡi thư ký của Lòng Thương Xót vô cùng thẳm sâu của Cha, con hãy biết rằng con có một nghĩa tình cá biệt với Cha. Công việc của con là ghi chép tất cả những điều Cha đã tỏ ra về Lòng Thương Xót của Cha, ngõ hầu những ai đọc những điều này thì được an ủi trong linh hồn và có can đảm đến cùng Cha. Vì vậy Cha muốn con hãy dành tất cả thời giờ cho việc ghi chép” (1693).
Thư ký của Cha, con hãy viết rằng: Cha rộng lượng với các tội nhân hơn với người công chính. Vì họ, Cha đã từ trời xuống thế; vì họ Cha đã đổ máu ra. Chớ gì họ đừng sợ hãi khi đến gần Cha; họ rất cần đến Lòng Thương Xót của Cha (1275).
Quyển Nhật Ký của thánh nữ Faustina là một bản tường thuật sâu sắc về những cao quang và những thử thách của một tâm hồn. Đó là bằng chứng của một đức tin kiên cường không lay chuyển. Nhưng trên hết, đó là bằng chứng về một niềm tín thác trọn vẹn vào Lòng Thương Xót vô cùng của Thiên Chúa.
Phân tích quyển Nhật Ký trên phương diện thần học, chúng ta có thể tóm lược sứ mạng của thánh nữ Maria Faustina phép Thánh Thể vào 3 chủ điểm:
  1. Nhắc nhở cho thế giới nhớ lại chân lý đức tin về tình yêu thương xót của Thiên Chúa dành cho mỗi người, như đã được mặc khải trong Thánh Kinh.
  2. Khẩn nài Lòng Thương Xót của Chúa cho toàn thế giới, cách riêng cho các tội nhân, bằng việc thực hiện một số hình thức sùng kính Lòng Thương Xót Chúa như đã được chính Chúa Giêsu đã tỏ ra. Những hình thức này gồm việc tôn kính bức hình Chúa Thương Xót với hàng chữ “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa”, cử hành đại lễ kính Lòng Thương Xót Chúa, vào Chúa Nhật sau lễ Phục Sinh; đọc chuỗi kinh Thương Xót; và cầu nguyện vào giờ thương xót vô biên ( 3 giờ chiều. Chúa Giêsu đã ban những lời hứa trọng đại cho các hình thức sùng kính ấy – miễn là chúng ta phải phó thác đời sống cho Thiên Chúa và tích cực thi hành bác ái cho tha nhân.
  3. Khởi xướng phong trào Lòng Thương Xót Chúa, với nhiệm vụ loan truyền và khẩn nài Lòng Thương Xót Chúa cho thế giới, đồng thời gắng đạt đến sự toàn thiện, theo những điều thánh nữ Faustina đã đặt ra. Những điều này đòi các tín hữu phải có một thái độ thơ thảo tín thác nơi Thiên Chúa, thể hiện qua việc chu toàn thánh ý Người và thái độ sống nhân ái với người chung quanh. Ngày nay, hàng triệu người khắp thế giới đang dấn thân vào phong trào Giáo Hội này: gồm các dòng tu, các tu hội đời, các tu sĩ, các đoàn hội, các tổ chức, các cộng đoàn tông đồ Lòng Thương Xót Chúa, cũng như các cá nhân đả trách những công việc mà Chúa Giêsu đã phán dạy qua thánh nữ Faustina.
Những lời Chúa Giêsu phán sau đây đã minh định nhiệm vụ tông đồ của thánh nữ Faustina:
“Hỡi ái nữ của Cha, con hãy cho cha các linh hồn. Con hãy biết sứ mạng của con là cho Cha các linh hồn bằng lời cầu nguyện và hy sinh. Khuyến giục họ tín thác vào Lòng Thương Xót của Cha (NK 1690).
Bị kiệt quệ vì bịnh tật và những đau khổ khôn xiết mà chị đã tự nguyện đón nhận như một lễ hy sinh vì các tội nhân. Nữ tu Maria phép Thánh Thể đã từ trần vào ngày mồng 5 tháng 10 năm 1838, tại thành phố Krakow, nước Ba Lan khi mới 33 tuổi đời. Danh tiếng về mức trưởng thành thiêng liêng và kết hợp thần bí với Thiên Chúa của chi đã được công nhận rộng rãi.
Mặc dù chỉ có một học vấn rất giới hạn, nhưng người nư tu hèn mọn này được giáo dục trong trường học của Thày Chí thánh. Chị đã để lại cho chúng ta một cuốn nhật ký (đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), khơi lên một nguồn hoan lạc và là trường dạy về đời sống thánh cho hàng ngàn tín hữu nam nữ. Từ quyển Nhật Ký này, người đọc có thể tìm thấy những con đường đưa họ đến với Chúa và học biết để sống tín thác và nhân ái.
Tiến Trình Phong Thánh.
Cùng với việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa, danh tiếng về sự thánh thiện của nữ tu Faustina cũng đã được loan truyền trong thế kỷ XX. Sau đây là một vài cột mốc của thập niên cuối cùng trong thế kỷ ấy. Những cột mốc ấy dẫn đến cao đỉểm là cuộc tôn phong hiển thánh cho nữ tu Maria Faustina phép Thánh Thể và việc thiết lập lễ tôn kính Lòng Thương Xót Chúa trong toàn thể Giáo Hội vào Chúa Nhật sau lễ Phục Sinh.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 1993, tại quảng trường thành Phêrô ở Rôma, Đức Gioan Phaolô II đã tôn phong nữ tu Faustina Kowalska lên hàng chân phước. Bghi lễ này diễn ra vào Chúa Nhật sau lễ Phục Sinh, hợp với ước nguyện của Chúa Giêsu đã tỏ ra cho nữ tu Faustina, muốn cử hành lễ kính Lòng Thương Xót Người vào ngày ấy. Nữ tu Faustina đã được tôn phong lên hàng chân phước nhờ Đức Gioan Phaolô II, người mà nhiều năm trước đó, khi còn là Tổng Giám Mục Giáo Phận Krakow, đã khở sự tiến trình cấp Tổng Giáo Phận để đưa đến vụ phong thánh cho chị.
Trong bài giảng hôm ấy, Đức Thánh Cha nói:
“Nữ tu Faustina, tôi chào kính chị. Bắt đầu từ hôm nay, Giáo Hội gọi chị là chân phước. Ôi chị Faustina, đời sống của chị phi thường biết bao! Chính chị là người con gái khó nghèo của dân tộc Ba Lan, đã được Chúa Giêsu ưu tuyển để nhắc nhở cho mọi người về mầu nhiệm cao vời Lòng Thương Xót Chúa! Chị đã mang mầu nhiệm ấy trong mình, và lìa bỏ thế gian này sau một cuộc đời ngắn ngủi, nhưng đầy những khổ đau. Tuy nhiên, màu nhiệm ấy đồng thời đã trở nên một lời nhắc nhở tiên tri cho thế giới và cho Âu Châu. Sứ điệp Lòng Thương Xót Chúa đã xuất hịện gần sát với ngày Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ.
Chắc chắn chị đã phải kinh ngạc nếu như chị được cảm nghiệm ngay trên trần gian náyứ điệp ấy có ý nghĩa như thế nào đối với những con người đau khổ trong giờ phút tang thương ấy, và nó đã lan truyền khắp thế giới như thế nào. Hôm nay, chúng tôi thực sự tin rằng chị đang nhìn thấy trong Thiên Chúa những thành quả trên trần gian của chị. Hôm nay, chị được nghiệm cảm điều ấy ngay từ nguồn mạch, đó là Chúa Kitô của chị, “Đấng Giàu Lòng Thương Xót”.
Nữ tu Faustina đã viết trong Nhật Ký của chị, “Tôi cảm thấy sứ mạng của tôi sẽ không chấm dứt sau cái chết của tôi, nhưng đó sẽ là khởi đầu (NK 281. Và quả thật đúng như thế! Sứ mạng của chị vẫn tiếp tục và đang sinh hoa kết quả lạ lùng. Thật sự lạ lùng vì lòng sùng kính của chị đối với Chúa Giêsu nhân lành đang loan truyền khắp thế giới đương đại và đem về rất nhiều linh hồn! Hiển nhiên đây là một dấu chỉ của thời đại- Một dấu chỉ của thế kỷ XX của chúng ta. Sự quân bình của thế kỷ này giờ đây đang chấm dứt, ngoài những tiến bộ thường vượt xa những tiến bộ của các thời đại trước, còn cho thấy một nỗi ưu tư sâu sắc và sợ hãi về tương lai. Thế giới có thể tìm được nơi nương ẩn, nếu không phải là nơi Lòng Thương Xót Chúa! Các tín hữu đã quá hiểu điều ấy.”
Khi suy tư về những lời của Đức Thánh Cha ở đây, điều đáng lưu ý là sứ mạng của thánh nữ Faustina có một nền tảng sâu xa trong Thánh Kinh và các văn kiện Giáo Hội. Nó cũng hoàn toàn phù hợp với tông thư Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót (Dives in misericordia) của chính Đức Gioan Phaolô II.
Trong quyển Nhật Ký đã được Đức Thánh Cha trích dẫn, thánh nữ Faustina đã trình bày những kinh nghiệm thần bí của ngài với Chúa Giêsu một cách đơn giản. Việc thánh nữ đã vương đến những tầm cao trong đời sống thần hiệp cho chúng ta một tấm gương sáng ngời về một con đường tiến đến sự trọn lành. Và đối với các linh hồn được lôi cuốn đến với màu nhiệm Lòng Thương Xót Chúa và mơ ước về một thế giới hạnh phúc hơn, thì sứ mạng tông đồ của chị thánh là một mô phạm. Vì vậy một số thần học gia đã liệt thánh nữ Faustina vào số những nhà thần bí vĩ đại.
Bức hình Chúa Thương Xót và con người của thánh nữ Faustina là một chứng từ hùng hồn về điều các thần học gia gọi là sự hạ mình của Thiên Chúa – Thiên Chúa đã tỏ mình cho nhân loại như đã được xác nhận trong Thánh Kinh, nhất là trong Phúc Âm.
Sau đó, đến ngày 23 tháng 4 năm 1995, chính Đức Gioan Phaolô II lại đích thân cử hành thánh lễ Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa và gửi đến tất cả chúng ta sứ mạng sau đây: “Anh chị em hãy tín thác vào Thiên Chúa. Hãy trở nên tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa. Đáp ứng theo lời mời gọi và gương sáng của chân phước Faustina, hãy chăm sóc cho những người đau khổ xác hồn. Hãy giúp cho mọi người cảm nghiệm được tình yêu thương xót của Chúa, tình yêu ủi an và làm cho chúng ta được chan chứa niềm vui.”
Bốn năm sau, vào ngày 11 tháng 4 năm 1999, nhân dịp năm dâng kính Chúa Cha, Đức Gioan Phaolô II đã chúc mừng 50.000 tín hữu từ khắp thế giới tụ về quảng trường thành Phêrô tại Roma, để cử hành lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Đó là Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa được cử hành lần đầu tiên tại quảng trường thành Phêrô. Đức Thánh Cha tỏ ra rất hài lòng về việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa của các tín hữu hiện diện và một lần nữa Ngài lên tiếng: “Quả thật, Tôi tha thiết kêu gọi anh chị em hãy trở nên những tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa, như chân phước Faustina Kowalska, trong đời sống thường nhật và tại những nơi làm việc của anh chị em.”
Cuối cùng, vào Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa, ngày 30 tháng 4 năm 2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong nữ tu Maria Faustina lên bậc hiển thánh. Chị là đấng thánh đầu tiên của năm thánh Cứu Độ. Trong một lời công bố đầy ngạc nhiên, Đức Thánh Cha đã ấn định Chúa Nhật sau lễ Phục Sinh là Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa trong toàn Giáo Hội hoàn vũ.
Vị Thánh Được Báo Trước.
Khi nữ tu Faustina được tôn phong hiển thánh, người ta mới chú ý đến giấc mơ mà chính chị thánh đã ghi lại trong thời gian đầu cuộc sống tu trì của chị; thị kiến mang ý nghĩa tiên tri thực sự về vị thánh tương lai ấy đáng được trích lại nguyên vẹn ở đây.
Tôi muốn ghi lại ở đây một giấc mơ của tôi về thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Khi còn trong thời gian nhà tập, lúc gặp phải một số khó khăn mà tôi không biết làm cấch nào để vượt qua. Đó những khó khăn nội tâm nhưng lại liên quan đến các gian nan bên ngoài. Tôi làm tuần cửu nhật kính các vị thánh, nhưng tình hình mỗi lúc một khó khăn hơn. Những đau khổ làm tôi tan nát đến độ làm thế nào để sống còn, nhưng bỗng nhiên tôi lóe lên một tư tưởng là cầu nguyện với thanh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Tôi bắt đầu một tuần cửu nhật kính thánh nữ, bởi vì trước khi vào dòng, tôi đã có lòng sùng kính ngài đặc biệt. Sau đó, tôi có phần thờ ơ với lòng sùng kính này, nhưng vì có nhu cầu, tôi lại bắt đầu cầu nguyện với ngài một cách sốt sắng. Đến ngày thứ năm trong tuần cửu nhật, tôi chiêm bao gặp được thánh nữ Têrêxa như thể ngài còn sống trên trần gian. Chị thánh giấu không cho tôi biết ngài là một vị thánh và lên tiếng an ủi, bảo tôi đừng lo âu về vấn đề này, nhưng hãy tín thác vào Thiên Chúa. Thánh nữ nói: “Chị cũng đã chịu đau khổ nhiều.” Nhưng tôi không hết lòng tin tưởng vào thánh nữ và đáp lại, “Hình như em thấy chị đau khổ gì đâu.” Nhưng thánh nữ Têrêxa xác quyết chắc chắn rằng chị thánh đã trải qua rất nhiều đau khổ, “Này em, em hãy biết rằng ba ngày nữa, sự khó sẽ đến hồi kết cuộc hạnh phúc.” Vì tôi chưa sẵn lòng tin tưởng, thánh nữ mới tỏ ra cho tôi biết ngài là một vị thánh. Lúc ấy niềm vui lớn lao tràn ngập linh hồn tôi, và tôi nói với chị thánh, “Chị là một vị thánh à? Thánh nữ đáp: “Đúng vậy, Chị là một vị thánh. Em hãy tin rằng vấn đề này rồi sẽ được giải quyết trong ba ngày nữa.” Và tôi nói: “Chị Têrêxa đáng yêu ơi, chị hãy cho em biết em có được lên thiên đàng không?” Thánh nữ đáp: “Có, em sẽ được lên thiên đàng.” “Em có trở thành một vị thánh không?” Thánh nữ lại đáp, “Có, em sẽ trở thành một vị thánh.” “Nhưng này chị Têrêxa nhỏ ơi, em có sẽ trở thành một vị thánh được nâng lên bàn thờ như chị không?” Chị thánh trả lời: “Có, em cũng sẽ là một vị thánh giống như chị, nhưng em phải tín thác vào Chúa Giêsu.”
Đây là một giấc mơ. Và như châm ngôn Ba Lan nói, những giấc mơ là những ảo ảnh; Thiên Chúa là đức tin. Tuy nhiên, ba ngày sau, sự khó đã được giải quyết một cách xuôi xắn như thánh nữ đã tuyên báo. Và mọi chuyện trong việc này xảy ra đúng như những gì thánh nữ đã nói trước. Tuy là một giấc mơ, nhưng là một giấc mơ có ý nghĩa (NK 150).
Thánh, nữ tu Faustina đã trân trọng danh xưng đó biết bao! Những đoạn khác trong quyển nhật ký chứng minh điều này: Con mong ước sẽ ra khỏi tuần tĩnh tâm này như một vị thánh, mặ dù mắt nhân loại không nhận ra điều này, kể cả các bề trên của con. Con buông mình hoàn toàn cho tác động của ân sủng Chúa. Lạy Chúa, nguyện thánh ý Chúa được thể hiện trọn vẹn nơi con (NK 1326).
Sự thinh lặng sâu thẳm bao phủ linh hồn tôi. Không có một áng mây nào che khuất mặt trời khỏi tôi. Tôi tắm mình trong áng sáng mặt trời để tình yêu Thiên Chúa có thể thực hiện việc biến đổi tôi hoàn toàn. Tôi muốn ra khỏi tuần tĩnh tâm này như một vị thánh, bát chấp tất cả; nghĩa là bất chấp tình trạng xấu xa của bản thân, tôi vẫn mong muốn trở thành một vị thánh, và tin vào Lòng Thương Xót Chúa có thể tác thành từ một kẻ khốn cùng như tôi, bởi vì tôi hoàn toàn có thiện chí. Trước tất cả các thất bại tôi vẫn muốn tiếp tục chiến đấu như một linh hồn lành thánh và sống như như một linh hồn lành thánh. Tôi không thất đảm bất cứ điều gì, như thể không có gì có thể làm thất đảm một linh hồn thánh thiện.
Con muốn sống và chết như một linh hồn thánh thiện, với ánh mắt luôn cắm chặt vào Chúa, lạy Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá, mẫu gương các hành động của con. Con thường nhìn quanh để kiếm tìm các tấm gương, nhưng không tìm được gì thỏa đáng, và con nhận ra sự thánh thiện của con dường như chao đảo. Nhưng từ nay về sau, mắt con sẽ cắm chặt vào Chúa, lạy Chúa Kitô, Đấng hướng đạo toàn thiện của con. Con tin tưởng Chúa sẽ chúc lành cho các nỗ lực của con (NK 1333).
Cuộc Tâm Sự
Giữa Thiên Chúa Nhân Lành
Với Một Linh Hồn Đau Khổ.
Đoạn trích sau đây từ Nhật Ký của thánh nữ Faustina sẽ cho ta thấy những đau khổ của chị, và có sức thôi thúc chúng ta noi gương chị trong việc chấp nhận đau khổ và nhìn nhận giá trị cứu độ của nó.
Chúa Giêsu: Hỡi Linh hồn đáng thương, Cha thấy con chịu lắm tân toan và thậm chí không có đủ sức để thưa chuyện với Cha. Thế thì Cha bắt chuyện với con vậy. Cho dù những đau khổ của con có lớn lao đi nữa, con cũng đừng nản lòng hoặc đầu hàng sự tuyệt vọng. Hỡi con nhỏ của Cha, hãy nói cho Cha biết ai đã giám gây thương tích cho trái tim con? Con hãy kể mọi sự chân tình với Cha và tỏ bày cho Cha tất cả những thương tích của trái tim con. Cha sẽ chữa lành, và đau khổ của con sẽ trở nên mạch nguồn thánh hóa cho con.
Linh Hồn: Lạy Chúa, những đau khổ của con quá lớn, quá nhiều, và quá lâu làm con phải ngã lòng.
Chúa Giêsu: Hỡi con nhỏ của Cha, con đừng nản chí. Cha biết niềm tín thác vô hạn con trao đặt nơi cha; Cha biết con ý thức về lòng nhân lành và tình thương xót của Cha. Vậy Cha con mình hãy hàn huyên cho hết những gì đang đè nặng trái tim con.
Linh Hồn: Có đủ thứ đủ chuyện nên con không biết phải nói điều nào và phải trình bày như thế nào.
Chúa Giêsu: Con hãy nói cho thật đơn giản như chỗ bạn bè với nhau. Hỡi con, bây giờ con hãy kể cho Cha biết điều gì cản trở con tiến bước trên đường trọn lành?
Linh Hồn: Sức khỏe yếu nhược đã kiềm hãm con trên đường trọn lành. Con không thể chu toàn các phận sự. Con vô dụng như một bánh xe thừa thãi trên một cỗ xe. Con không ham mình và giữ chay được đến mức các thánh đã làm. Lại nữa, không ai tin là con bệnh tật, thành ra nỗi đau tinh thần làm trầm thống thêm nỗi đau thể xác, và con thường xuyên phải chịu nhục nhã. Lạy Chúa Giêsu, làm sao ai lại có thể nên thánh trong những hoàn cảnh như thế?
Chúa Giêsu: Con nhỏ của Cha ơi, đúng thế, tất cả điều ấy đều là đau khổ. Nhưng đâu còn con đường nào khác dẫn lên trời ngoài con đường thánh giá. Cha là người thứ nhất đã đi con đường ấy. Con phải biết đó là con dường ngắn nhất và bảo đảm nhất.
Linh Hồn: Lạy Chúa, trên con đường nên thánh cũng còn một ngãng trở khác. Vì trung thành với Chúa mà con cam chịu bách hại và đau khổ rất nhiều.
Chúa Giêsu: Chính vì con không thuộc về thế gian nên thế gian mới ghét bỏ con. Trước tiên, thế gian đã bách hại Cha. Bách hại là dấu hiệu minh chứng con đang trung thành theo bước Cha.
Linh Hồn: Lạy Chúa, con còn chán nản vì các bề trên và cha giải tội của con cũng không cảm thông những thử thách nội tâm của con. Một đám mây mù bao phủ tâm trí con. Làm sao con có thể tiến bước? Tất cả điều ấy làm con nản chí và chẳng còn muốn vươn đến những đỉnh cao trọn lành nữa.
Chúa Giêsu: Được, con ơi, lần này con đã tâm sự khá nhiều với Cha. Cha biết rằng không được cảm thông cũng là một nỗi đớn đau, nhất là những người mà ta yêu mến và cởi mở thật nhiều. Nhưng con hãy biết, tất cả những phiền sầu và khốn cùng của con được Cha cảm thông là đủ lắm rồi. Cha hài lòng với niềm tin tưởng vững vàng của con, dù thế nào cũng vẫn tin tưởng vào các vị đại diện của Cha. Từ đó, con hãy biết rằng không ai có thể cảm thông hoàn toàn cho một linh hồn – vì điều ấy vượt quá khả năng nhân loại. Vì vậy, Cha vẫn còn trên trần gian để ủi an trái tim nhức nhối của con và bổ sức cho linh hồn con, để con khỏi phải lao đao trên đường. Con nói có một bóng đen tăm tối dầy đặc đang phủ lấp tâm trí con. Nhưng trong những lúc ấy, sao con không đến với Cha là nguồn sáng, trong một giây phút có thể chiếu giãi vào linh hồn con tri thức thánh thiện nhiều hơn trong bất kỳ sách vở nào? Không cha giải tội nào có thể dạy dỗ và chỉ dẫn cho một linh hồn được như thế.
Con cũng nên biết cảnh tăm tối mà con than phiền ấy chính Cha là người trước tiên đã chịu trong vườn Cây Dầu, giữa lúc linh hồn Cha bị nghiền nát trong nỗi thảm sầu đến chết. Cha cho con chia sẻ một phần những đau khổ ấy vì ân tình đặc biệt Cha dành cho con và vì mức độ thánh thiện cao vời Cha muốn ban cho con trên thiên đàng. Linh hồn đau khổ là linh hồn gần gũi với Trái Tim Cha nhất (NK 1487).
Bài Giảng Của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Trong Lễ Tôn Phong Hiển Thánh Cho Nữ Tu Faustina.
Vào ngày 30 tháng 4 năm 2000, trong thánh lễ tôn phong hiển thánh cho Nữ Tu Faustina, Đức Thánh Cha đã tuyên bố trong bài giảng của ngài:
‘Hãy cảm tạ Thiên Chúa, vì Người nhân lành, vì ơn Người miên man vạn đại (Tv 118:1).
(…) Lòng Thương Xót Chúa đến với nhân loại qua Thánh Tâm của Chúa Giêsu tử giá:
Hỡi ái nữ của cha, con hãy nói với mọi người rằng Cha là Toàn Yêu và Toàn Thương (NK 1047).
Chúa Kitô đã trao đổ Lòng Thương Xót ấy qua việc sai phái Ngôi Thánh Thần trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Ngôi vị tình yêu, đến với nhân loại. Và phải chăng thương xót không phải là danh hiệu thứ hai của tình yêu (tông thư Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót 7), được hiểu trên phương diện sâu xa và ngọt ngào nhất, trong khả năng đảm đương gánh nặng của mọi nhu cầu, và nhất là trong năng lực vĩ đại để ban ơn tha thứ hay sao?
Hôm nay, niềm vui của tôi thật sự lớn lao khi được trình bày cuộc sống và chứng từ của nữ tu Faustina Kolwalska cho toàn Giáo Hội như một quà tặng Thiên Chúa dành cho thời đại chúng ta. Nhờ Thiên Chúa quan phòng, cuộc sống người thiếu nữ hèn mọn của đất nước Ba Lan đã được liên kết mật thiết với lịch sử của thế kỷ XX, thế kỷ chúng ta vừa bỏ lại phía sau. Thực vậy, vào thời giữa hai cuộc Thế Chiến I và II. Chúa Kitô đã ủy thác sứ điệp Lòng thương Xót của Người cho chị nữ tu này. Những ai còn nhớ – những người đã chứng kiến và tham dự vào các biến cố của những năm tháng ấy và những đau khổ kinh hoàng mà hai cuộc thế chiến đã gây ra cho hàng triệu con người – đều quá biết rằng sứ điệp Lòng Thương Xót khẩn thiết như thế nào. Chúa Giêsu đã phán với nữ tu Faustina rằng:
Nhân loại sẽ không được bình an cho đến khi nào quay về với Lòng Thương Xót của Cha với niềm tín thác (NK 300).
Nhờ công việc của người nữ tu Ba Lan ấy, sứ điệp này đã mãi mãi được gắn liền với thế kỷ XX, thế kỷ sau cùng của thiên niên kỷ II và cầu nối sang niên kỷ thứ III. Đó không phải là sứ điệp mới mẻ, nhưng có thể được coi như một ân huệ soi sáng đặc biệt giúp chúng ta sống Phúc Âm Phục Sinh một cách mãnh liệt hơn, trình bày Phúc Âm ấy như một tia sáng cho những con người, nam cũng như nữ, trong thời đại của chúng ta.
Những năm tháng trước mắt sẽ mang lại những gì cho chúng ta? Tương lai nhân loại trên thế giới này sẽ ra sao? Chúng ta không được tỏ cho biết. Tuy nhiên, điều không may là, ngoài những tiến bộ tân kỳ, chắc chắn sẽ không thiếu những kinh nghiệm đau đớn. Nhưng ánh sáng Lòng Thương Xót Chúa, ánh sáng Chúa đã muốn đem đến cho thế giới qua đặc sủng nữ tu Faustina sẽ soi chiếu con đường cho những con người nam nữ của thiên niên kỷ thứ III.
Tuy nhiên, như các Tông Đồ xưa, nhân loại ngày nay cũng phải đón tiếp Chúa Kitô Phục Sinh vào gian phòng Tiệc Ly của lịch sử, Chúa sẽ tỏ ra những thương tích thập gía của người và phán: Bình an cho các con! Nhân loại phải sẵn lòng để mình được Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho họ, đánh động và bao chiếm. Chính Chúa Thánh Thần, Đấng chữa lành các vết thương tâm hồn, sẽ phá tan những chướng ngại ngăn cản chúng ta với Thiên Chúa và chia rẽ chúng ta với nhau, đồng thời sẽ phục hồi niềm tin của tình yêu Thiên Chúa Cha và sự hiệp nhất huynh đệ.
Điều quan trọng là chúng ta phải đón nhận toàn bộ sứ điệp ban cho chúng ta qua Lời Chúa trong Chúa Nhật thứ hai sau lễ Phục Sinh, ngày mà từ nay về sau trong khắp Giái Hội sẽ được gọi là Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa. Trong các bài đọc phong phú, phụng vụ dường như nêu lên con đường của lòng thương xót, con đường tái lập mối tương giao giữa từng người với Thiên Chúa, và đồng thời cũng tạo lập những tương quan liên đới huynh đệ giữa nhân loại với nhau. Chúa Kitô đã dạy chúng ta rằng: Nhân loại không những tiếp nhận và cảm nghiệm Lòng Thương Xót Chúa mà còn được mời gọi hãy sống lòng xót thương với nhau nữa: ‘Phúc cho ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được xót thương’ (MT 5:7) (Tông thư Thiên Chúa Giàu Lòng Xót Thương, 14). Người còn chỉ cho chúng ta nhiều con đường của lòng thương xót, không những tha thứ tội lỗi, mà còn vươn đến tất cả những nhu cầu của nhân loại. Chúa Giêsu thương đoái nhìn đến mọi nỗi khốn cùng của nhân loại, vật chất cũng như tinh thần.
Sứ điệp Lòng Thương Xót vẫn tiếp tục đến với chúng ta qua đôi tay hằng dang ra cho nhân loại tang thương. Đó là hình ảnh Chúa Giêsu mà nữ tu Faustina đã nhìn thấy và tuyên xưng cho mọi người trên khắp các lục địa, mặc dù chị sống mai ẩn trong tu viện ở Lagiewnik tại thành phố Krakow. Chị đã biến cuộc đời mình thành một bản thánh ca chúc tụng Lòng Thương Xót Chúa. Misericordias Domini in aeternum cantabo: Con sẽ tấn dương Lòng Thương Xót Chúa đến muôn đời.
Sự kiện tôn phong hiển thánh của nữ tu Faustina có một sức hùng biện đặc biệt. Qua hành vi này, hôm nay Tôi muốn loan truyền sứ điệp này cho thiên niên kỷ mới. Tôi quảng bá sứ điệp này, cho mọi người, để họ càng ngày càng hiểu biết hơn về thánh nhan chân thật của Thiên Chúa và dung mạo đích thực của anh chị em mình.
Thực vậy, tình yêu Thiên Chúa và tình yêu anh chị em không thể tách lìa nhau, như bức thư thứ nhất của thánh Gioan Tông Đồ đã nhắn nhở chúng ta: ‘Căn cứ vào điều này mà chúng ta biết được chúng ta yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người’ (1Ga5:2). Ở đây, thánh Tông Đồ nhắc cho chúng ta chân lý của tình của tình yêu, chỉ cho chúng ta thấy mức độ và tiêu chuẩn để tuân giữ các điều răn ấy.
Thật không dễ dàng để yêu thương bằng một tình yêu sâu xa, một tình yêu hệ ở việc trao hiến bản thân thật sự. Chúng ta chỉ có thể học được tình yêu này nhờ việc đi sâu vào mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa. Nhìn lên Chúa, nên một với Thánh Tâm hiền phụ của Người, chúng ta mới có thể nhìn vào anh chị em chúng ta bằng một ánh nắt mới mẻ, với một thái độ xả kỷ và liên đới, quảng đại và tha thứ. Tất cả đây là lòng thương xót!
Nhân loại càng đi sâu vào màu nhiệm của ánh nhìn Lòng Thương Xót Chúa, thì dường như họ càng có thể đạt đến lý tưởng mà chúng ta đã nghe trong bài đọc Một hôm nay. “Cộng đoàn các tín hữu bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ các gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung’ (Cv 4:32). Ở đây, lòng thương xót đã tạo lập những tương quan con người và sinh hoạt cộng đồng; tạo lập căn bản cho việc chia xẻ của cải. Điều này đã dẫn đến những hành vi thương xót, tinh thần và vật chất. Ở đây, lòng thương xót đã trở nên một phương cách cụ thể giúp chúng ta trở thành người lân cận với những người anh chị em đang cùng quẫn nhất.
Nữ tu Faustina đã viết trong quyển nhật ký của mình:
Tôi đau đớn rất nhiều khi thấy đau khổ của người khác. Tất cả những đau khổ ấy đều vọng lại trong tâm hồn tôi. Tôi mang những khổ ải của họ trong trái tim đến nỗi khiến thể xác của tôi tiều tụy. Tôi muốn tất cả những đớn đau ấy trút xuống mình tôi để xoa dịu cho người chung quanh’ (NK 1309).
Chính tình yêu này phải cảm khái nhân loại ngày nay, khi họ phải đương đầu với cuộc khủng hoảng về ý nghĩa cuộc sống, những thách đố của các nhu cầu hết sức đa dạng, và nhất là bổn phận bảo vệ phẩm giá của từng con người. Như vậy, sứ điệp Lòng Thương Xót Chúa cũng tiềm ẩn một sứ điệp về chính giá trị của mỗi con người. Mỗi người đều quí báu trước mắt Chúa; Chúa Kitô đã hiến mạng sống cho từng các nhân; Chúa Cha ban cho từng cá nhân Thánh Thần của người và dành cho họ một mối tình thân mật.
Sứ điệp có sức an ủi này trước tiên hướng đến những người bị đau khổ vì thử thách gian nan đặc biệt họăc chịu quằn quại dưới gang nặng tội lỗi họ đã phạm, những người đã mất hết niềm tin vào cuộc sống và liều mình đi đến chỗ tuyệt vọng. Thánh nhan dịu hiền của Chúa Kitô là dành cho họ; những luồng ánh sáng từ Thánh Tâm Người đánh động, chiếu soi, và sưởi ấm cho họ, chỉ cho họ một con đường và trào đổ cho họ một niềm hy vọng. Biết bao linh hồn đã được ủi an nhờ câu kinh ‘Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa’câu kinh mà Chúa Quan Phòng đã riêng tỏ ra cho nữ tu Faustina! Hành vi tín thác đơn sơ nơi chúa Giêsu ấy xua tan những đám mây dầy đặc và để một tia sáng thấu đến mọi cuộc đời.
Misericordias Domini in aeternum cantabo (Tv 88 – 89 :2). Con sẽ tán dương Lòng Thương Xót Chúa đến muôn đời. Cả chúng ta nữa, Giáo Hội lữ hành, chúng ta hãy cùng hợp tiếng với Đức Maria Rất Thánh, ‘Từ Mẫu Thương Xót’ và cùng với vị thánh nữ mới này, người đang ca ngợi Lòng Thương Xót Chúa cùng với tất cả những bạn hữu của Người trên Jerusalem Thiên Quốc.
Và thưa chị thánh Faustina, một tặng ân Thiên Chúa ban cho thời đại chúng ta, một quà tặng từ miền đát Ba Lan dành cho toàn thể Giáo Hội, xin cho chúng tôi nhận thức về chiều sâu Lòng Thương Xót Chúa. Xin giúp chúng tôi có một kinh nghiệm sống động về điều đó giữa các anh chị em của chúng tôi. Ước chi sứ điệp ánh sáng hy vọng của chị thánh lan tỏa khắp thế giới, lôi kéo các tội nhân trở về, làm nguôi tan những đối đầu và ghen ghét, mở lòng những cá nhân và những quốc gia để thực thi tình huynh đệ. Hôm nay cùng với chị thánh, chúng tôi chiêm ngắm thánh nhan Chúa Kitô Phục Sinh, xin cho chúng tôi mượn lời kinh phó thác tin tưởng của chị thánh làm như của chúng tôi mà thưa lên với lòng cậy trông vững vàng:
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
con tín thác nơi Chúa!
————————————————————————–
Tác Giả – Nữ Tu Barbara Jesus Tomaszewski
Dịch Thuât – Rev Ngoc Đính

18/08/19 Chúa Nhật Tuần XX Mùa Thường Niên

BÀI ĐỌC I: Gr 38, 4-6. 8-10

“Ngài đã sinh ra tôi làm người bất thuận sống trên vũ trụ”.

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Trong những ngày ấy, các thủ lãnh tâu vua rằng: “Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉ tìm tai hoạ”. Vua Sêđêcia phán rằng: “Đấy nó ở trong tay các ngươi, vì nhà vua không thể từ chối các ngươi điều gì”. Họ liền bắt Giêrêmia và quăng xuống giếng của Melkia con Amêlec, giếng này ở trong sân khám đường, họ dùng dây thả Giêrêmia xuống giếng. Giếng không có nước, chỉ có bùn, nên ông Giêrêmia sa xuống bùn.

Abđêmêlech ra khỏi đền vua và đến tâu vua rằng: “Tâu bệ hạ, những người này chỉ toàn làm những điều ác đối với tiên tri Giêrêmia, họ ném ông xuống giếng cho chết đói dưới đó, vì trong thành hết bánh ăn”. Vậy vua truyền dạy Abđêmêlech người Êthiôpi rằng: “Hãy đem ba mươi người ở đây theo ngươi, và kéo tiên tri Giêrêmia ra khỏi giếng trước khi ông chết”.

Đó là lời Chúa.

 

ĐÁP CA: Tv 39, 2. 3. 4. 18

Đáp: Lạy Chúa, xin cấp tốc trợ phù con (c. 14b).

Xướng:

1) Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Người đã nghiêng mình về bên tôi, và Người đã nghe tiếng tôi kêu cầu. – Đáp.

2) Người đã kéo tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi chỗ bùn nhơ; Người đã đặt chân tôi trên đá cứng, và đã làm vững bước chân tôi.- Đáp.

3) Và Người đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta; nhiều người đã chứng kiến và tôn sợ, và họ sẽ cậy trông vào Chúa. – Đáp.

4) Phần con, khốn khổ cơ bần, nhưng mà có Chúa ân cần chăm nom. Người là Đấng phù trợ và giải thoát con, ôi lạy Chúa, xin Ngài đừng chậm trễ. – Đáp.

 

BÀI ĐỌC II: Dt 12, 1-4

“Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta”.

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, cả chúng ta, chúng ta cũng có một đoàn thể chứng nhân đông đảo như đám mây bao quanh, chúng ta hãy trút bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta nặng nề và tội lỗi bao quanh chúng ta. Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến Đấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng. Vì chưng, trong khi chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu.

Đó là lời Chúa.

 

ALLELUIA: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống”. – Alleluia.

 

PHÚC ÂM: Lc 12, 49-53

“Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng”.

Đó là lời Chúa.

17/08/19 Thứ Bảy Tuần XIX Mùa Thường Niên



BÀI ĐỌC I: Gs 24, 14-29
“Hôm nay các ngươi hãy tuỳ ý chọn phải tôn thờ ai hơn”.
Trích sách ông Giosuê.
Trong những ngày ấy, Giosuê nói với dân chúng rằng: “Giờ đây, các ngươi hãy kính sợ Chúa và tôn thờ Người với tâm hồn thiện hảo và chân thành. Hãy loại bỏ những thần cha ông các ngươi đã tôn thờ trong xứ Mêsôpôtamia và ở Ai-cập, mà tôn thờ Chúa. Còn nếu các ngươi không muốn tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn: hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn phải tôn thờ ai hơn: hoặc là các thần cha ông các ngươi đã tôn thờ ở Mêsôpôtamia, hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở. Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa”.
Dân trả lời rằng: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần ngoại. Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã dẫn chúng tôi và cha ông chúng tôi ra khỏi Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Người đã làm những việc kỳ diệu cả thể trước mắt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt con đường chúng tôi đã đi, giữa tất cả mọi dân chúng tôi đã đi qua. Chúa đã trục xuất tất cả những dân đó cũng như người Amôrê trên phần đất chúng tôi đã tiến vào. Vậy chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa, vì chính Người là Thiên Chúa chúng tôi”.
Bấy giờ Giosuê nói với dân chúng rằng: “Các ngươi không thể tôn thờ Chúa được, vì Người là Thiên Chúa chí thánh, Thiên Chúa ghen tương, sẽ không tha thứ những tội ác và lỗi lầm của các ngươi. Nếu các ngươi bỏ Chúa mà tôn thờ các thần ngoại, Người sẽ trở lại giáng hoạ trên các ngươi và tiêu diệt các ngươi, sau khi đã thi ân cho các ngươi”.
Dân chúng thưa với Giosuê rằng: “Không phải như ông nói đâu, nhưng chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa”. Giosuê liền bảo dân chúng rằng: “Vậy các ngươi hãy tự làm chứng rằng: chính các ngươi đã chọn Chúa để tôn thờ Người”. Họ đáp: “Chúng tôi xin làm chứng”. Ông nói: “Vậy thì hãy loại bỏ những thần ngoại ra khỏi các ngươi và hướng lòng về Chúa là Thiên Chúa Israel”. Dân chúng thưa với Giosuê rằng: “Chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, và sẽ tuân phục các mệnh lệnh của Người”.
Hôm ấy, Giosuê lập giao ước, ấn định quy chế và luật lệ cho dân ở Sikem. Giosuê ghi chép các lời đó vào sách Luật của Chúa, rồi lấy một tảng đá thật lớn và dựng lên dưới cây sồi ở trong nơi thánh của Chúa, và nói với toàn dân rằng: “Đây, tảng đá này sẽ làm chứng cho các ngươi, vì nó đã nghe mọi lời Chúa phán với các ngươi, kẻo sau này các ngươi chối bỏ và lừa dối Chúa là Thiên Chúa các ngươi”. Sau đó, Giosuê giải tán dân chúng và ai nấy trở về với phần đất của mình. Sau những sự việc đó, Giosuê, con ông Nun, tôi tớ Chúa, qua đời, hưởng thọ một trăm mười tuổi.
Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 11
Đáp: Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con (x. c. 5a).
Xướng:
1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con! Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con; chính Ngài nắm giữ vận mạng của con. – Đáp.
2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo. Đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. – Đáp.
3) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời. – Đáp.

ALLELUIA: Tv 118, 18
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin mở rộng tầm con mắt con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 19, 13-15
“Đừng ngăn cấm các trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời là của những người giống như chúng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, người ta đem những trẻ nhỏ đến cho Chúa Giêsu để Người đặt tay và cầu nguyện cho chúng. Các môn đệ liền quở trách chúng, nhưng chúa Giêsu bảo: “Hãy để các trẻ nhỏ đến với Ta, và đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những người giống như chúng”. Sau khi Người đặt tay trên chúng, thì Người đi khỏi nơi đó.
Đó là lời Chúa.

16/08/19 Thứ Sáu Tuần XIX Mùa Thường Niên

BÀI ĐỌC I: Gs 24, 1-13

“Ta đã đem tổ phụ các ngươi từ Mêsôpôtamia về, đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập, đã đem các ngươi vào đất nước”.

Trích sách ông Giosuê.

Trong những ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem, rồi gọi các kỳ lão, các thủ lãnh gia tộc, quan án, sĩ quan đến, và họ đứng trước mặt Thiên Chúa. Giosuê liền nói với toàn dân như thế này:

Chúa là Thiên Chúa Israel phán rằng: Thuở xưa tổ tiên các ngươi là Tharê, cha của Abraham và Nacor, đã ở bên kia sông, và đã thờ các thần ngoại. Bấy giờ Ta đã đem Abraham, tổ phụ các ngươi, từ bên kia sông và đã dẫn đưa ông vào đất Canaan. Ta lại làm cho con cháu ông trở nên đông đúc, đã ban cho ông được Isaac. Ta lại ban cho Isaac được Giacóp và Êsau. Trong hai người này, Ta đã ban cho Êsau miền núi Sêir làm sản nghiệp. Còn Giacóp và con cái thì xuống Ai-cập.

Sau đó, Ta đã sai Môsê và Aaron, và trừng phạt Ai-cập bằng những phép lạ. Rồi Ta đã dẫn các ngươi và cha ông các ngươi ra khỏi Ai-cập, và các ngươi đã đi tới Biển. Người Ai-cập đuổi theo cha ông các ngươi với chiến xa binh mã cho đến Biển Đỏ. Bấy giờ con cái Israel kêu cầu Chúa và Người đã khiến sự tối tăm ngăn giữa các ngươi và quân Ai-cập, và làm cho biển tràn ra mà vùi lấp chúng. Chính mắt các ngươi đã thấy tất cả những gì Ta đã làm ở Ai-cập, rồi các ngươi đã ở lâu trong hoang địa.

Sau đó, Ta đã đưa các ngươi vào xứ Amorê, bên kia sông Giođan. Chúng đã giao chiến với các ngươi và Ta đã trao chúng trong tay các ngươi. Các ngươi đã chiếm được đất đai của chúng, và Ta đã tiêu diệt chúng trước mặt các ngươi. Rồi Balac, con Sêphor, vua xứ Moab, dấy lên giao chiến với Israel. Vua ấy đã cho mời Balaam, con của Bêor, đến để chúc dữ các ngươi. Ta không muốn nghe Balaam. Nhưng trái lại Ta đã dùng nó chúc phúc cho các ngươi và Ta đã cứu các ngươi thoát khỏi bàn tay nó.

Sau đó, các ngươi đã qua sông Giođan và đến Giêricô, dân thành này, cũng như các người Amorê, Phêrêsê, Canaan, Hêthê, Gergêsê, Hêvê, Giêbusê, đã giao chiến với các ngươi. Nhưng Ta đã trao chúng trong tay các ngươi. Ta đã cho ong bò vẽ đi trước các ngươi, và Ta đuổi hai vua xứ Amorê ra khỏi các địa hạt của họ mà không cần nhờ đến cung kiếm của các ngươi. Ta đã ban cho các ngươi một vùng đất mà các ngươi không mất công đánh chiếm. Ta đã cho các ngươi được ở những thành mà các ngươi không phải xây cất, Ta đã cho các ngươi những vườn nho và vườn ôliu mà các ngươi không vun trồng.

Đó là lời Chúa.

 

ĐÁP CA: Tv 135, 1-3. 16-18. 21-22 và 24

Đáp: Bởi đức từ bi Người muôn thuở.

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng:

1) Hãy ca ngợi Chúa, vì Người hảo tâm, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Hãy ca ngợi Thiên Chúa của chư thần, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Chỉ mình Người làm những việc kỳ diệu vĩ đại, bởi đức từ bi Người muôn thuở. – Đáp.

2) Người đã dẫn đưa dân Người qua sa mạc, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã đánh dẹp các đại vương đế, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã giết các vua quyền thế, bởi đức từ bi Người muôn thuở. – Đáp.

3) Người đã ban đất chúng để làm gia sản, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Làm gia sản của Israel tôi tớ Người, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quân thù địch, bởi đức từ bi Người muôn thuở. – Đáp

 

ALLELUIA: 1 Ga 2, 5

Alleluia, alleluia! – Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy. – Alleluia.

 

PHÚC ÂM: Mt 19, 3-12

“Vì lòng chai đá của các ngươi mà Môsê đã cho phép các ngươi rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, có những người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng: “Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?” Người đáp: “Nào các ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một thân xác? Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly”. Họ hỏi lại: “Vậy tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy vợ?” Người đáp: “Vì lòng chai đá của các ông mà Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo các ông rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác, thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại tình”.

Các môn đệ thưa Người rằng: “Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ”. Người đáp: “Không phải mọi người hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ sinh ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu được thì hiểu”.

Đó là lời Chúa.

15/08/19 Thứ Năm, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời


Lễ Vọng
BÀI ĐỌC I: 1 Sb 15, 3-4. 15-16; 16, 1-2
“Mọi người cung nghinh hòm bia Thiên Chúa đến đặt giữa nhà xếp do Đavít dựng lên”.
Trích sách Sử Biên Niên quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Đavít triệu tập toàn thể dân Israel và Giêrusalem, để cung nghinh hòm bia Thiên Chúa đến nơi đã dọn sẵn. Có cả con cái Aaron và những người thuộc dòng tộc Lêvi.
Con cái Lêvi dùng đòn khiêng mà khiêng hòm bia Thiên Chúa trên vai, như Môsê đã truyền dạy theo lời Chúa phán. Đavít cũng truyền lệnh cho các trưởng tộc người Lêvi phải cắt đặt anh em mình phụ trách ca hát, với những nhạc khí, gồm đàn cầm, đàn sắt và não bạt, để trổi lên những tiếng đàn ca hân hoan. Vậy mọi người cung nghinh hòm bia Thiên Chúa đến đặt giữa nhà xếp do Đavít dựng lên: đoạn hiến dâng của lễ toàn thiêu và cầu an trước mặt Chúa. Khi vua Đavít hiến dâng của lễ toàn thiêu và cầu an xong, người nhân danh Chúa chúc lành cho dân chúng.
Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 131, 6-7. 9-10. 13-14
Đáp: Lạy Chúa, xin lên đường đi tới nơi an nghỉ, Chúa và Hòm bia oai quyền của Chúa cùng đi (c. 8).
Xướng:
1) Đây là điều chúng tôi đã nghe nói tại E-phra-ta, chúng tôi đã gặp thấy nơi đồng ruộng Gia-ar. Chúng ta hãy tiến vào nhà Chúa, hãy sụp lạy trước bệ dưới chân Người. – Đáp.
2) Các tư tế của Ngài hãy mặc lấy lòng đạo đức, và các tín đồ của Ngài hãy mừng rỡ hân hoan. Xin vì Đavít là tôi tớ Chúa, Chúa đừng hắt hủi người được Chúa xức dầu. – Đáp.
3) Bởi chưng Chúa đã kén chọn Sion, đã thích lựa Sion làm nơi cư ngụ cho mình. Ngài phán: “Đây là nơi nghỉ ngơi của Ta tới muôn đời, Ta sẽ cư ngụ nơi đây, vì Ta ưa thích”. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: 1 Cr 15, 54-57
“Người đã ban cho chúng ta sự chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, khi xác hay chết này mặc lấy sự trường sinh, thì lúc ấy ứng nghiệm lời đã ghi chép rằng: “Sự chết đã tiêu tan trong chiến thắng. Hỡi tử thần, chiến thắng của ngươi ở đâu? Hỡi tử thần, nọc độc của ngươi ở đâu? Nọc độc của sự chết là tội, thế lực của tội là lề luật”. Cảm tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Lc 11, 28
Alleluia, alleluia! – Phúc cho những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 11, 27-28
“Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: “Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú”. Nhưng Người phán rằng: “Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn”.
Đó là lời Chúa.
_____________________
Lễ Trong Ngày
BÀI ĐỌC I: Kh 11, 19a; 12, 1-6a, 10ab
“Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Đền thờ Thiên Chúa trên trời đã mở ra. Và một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao: Bà đang mang thai, kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con.
Lại một điềm lạ khác xuất hiện trên trời: một con rồng đỏ khổng lồ, có bảy đầu, mười sừng, và trên bảy đầu, đội bảy triều thiên. Đuôi nó kéo đi một phần ba tinh tú trên trời mà ném xuống đất. Con rồng đứng trước mặt người nữ sắp sinh con, để khi Bà sinh con ra, thì nuốt lấy đứa trẻ.
Bà sinh được một con trai, Đấng sẽ dùng roi sắt mà cai trị muôn dân: Con Bà được mang về cùng Thiên Chúa, đến tận ngai của Người. Còn Bà thì trốn lên rừng vắng, ở đó Bà được Thiên Chúa dọn sẵn cho một nơi.
Và tôi nghe có tiếng lớn trên trời phán rằng: “Nay sự cứu độ, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta, và uy quyền của Đức Kitô của Người đã được thực hiện”.
Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 44, 10bc. 11. 12ab. 16
Đáp: Hoàng Hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng (c. 10b).
Xướng:
1) Hoàng Hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy. – Đáp.
2) Xin hãy nghe, thưa Nương Tử, hãy coi và hãy lắng tai, hãy quên dân tộc và nhà thân phụ. – Đáp.
3) Để Đức Vua Người sủng ái dong nhan: chính Người là Chúa của Cô Nương, hãy phục vụ Người. – Đáp.
4) Họ bước đi trong niềm hân hoan vui vẻ, tiến vào trong cung điện Đức Vua. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: 1 Cr 15, 20-26
“Hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Chúa”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một người, thì sự kẻ chết sống lại cũng bởi một người. Cũng như mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Đức Kitô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Đức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi đến tận cùng, khi Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, và đã tiêu diệt mọi đầu mục, quyền năng và thế lực. Nhưng Người còn phải cai trị cho đến khi Người đặt mọi quân thù dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt là sự chết, bởi Người đã bắt mọi sự quy phục dưới chân Người.
Đó là lời Chúa.

ALLELUIA:
Alleluia, alleluia! – Đức Maria được mời gọi lên trời; đạo binh các thiên thần mừng rỡ hân hoan. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 1, 39-56
“Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabeth, và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:
“Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”.
Và Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời”.
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà Mình.
Đó là lời Chúa.

Bài Tiêu Biểu

- Copyright © Giáo xứ bích trì - Blogger Templates - Powered by Blogger - Designed by Johanes Djogan -